Print

THI SĨ NGÔ KHA TRUNG THỰC MỘT ĐỜI THƠ

Published Date
Written by Võ Quê
Hits: 11365

 

Lời vô tri bay đã cao như ánh mắt tù trên đỉnh núi mạch đất quê hương giờ lạnh rồi...

 

Thầy giáo Ngô Kha

 

THI SĨ NGÔ KHA

TRUNG THỰC MỘT ĐỜI THƠ


 

Mùa thu năm 1968, do trường trung học Nguyễn Hoàng, Quảng Trị không có lớp đệ nhất ban C nên toàn bộ học sinh lớp đệ nhị C chúng tôi được chuyển vào học lớp đệ nhất ban C trường Quốc Học. Tại thành phố Huế thơ mộng, mới mẻ này, những văn nghệ sĩ đầu tiên mà tôi may mắn được gặp rồi dần được hân hạnh quen biết là giáo sư Ngô Kha và những người bạn cùng thời của anh là họa sĩ Vĩnh Phối, họa sĩ Đinh Cường, giáo sư Bứu Ý, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tại quán cà phê Tổng hội Sinh viên Huế (22 Trương Định) trong mỗi buổi chiều sinh hoạt thơ ca, âm nhạc. Nơi đây tôi còn được quen biết thêm các anh Trần Văn Hòa, làm thơ với bút danh Trường Sơn, Trần Viết Ngạc, Lê Khắc Cầm, Lê Văn Ngăn, Bửu Chỉ, Thái Ngọc San, Đông Trình, Trần Duy Phiên, Trần Hồng Quang, Huỳnh Ngọc Sơn, Chu Sơn, Tần Hoài Dạ Vũ, Nguyễn Văn Phụng…

Tôi được đến sinh hoạt trong căn nhà ấy là do các bạn học sinh cùng lớp ở Huế như Nguyễn Duy Hiền, Trần Đình Sơn Cước, Nguyễn Cửu Thanh…biết và đưa tôi tới. Là một cậu học trò từ xứ Quảng Trị gió Lào khắc nghiệt mới vô chốn cố đô văn vật cho nên trong những ngày đầu tôi không khỏi rụt rè bỡ ngỡ trước không khí văn nghệ hào hoa của các bậc đàn anh. Do quá yêu thơ nhạc, lại được bạn bè động viên, khích lệ nên thỉnh thoảng trong một số buổi sinh hoạt thơ nhạc tại quán cà phê Tổng hội tôi cũng mạnh dạn ngâm một số bài thơ mà tôi từng thuộc như Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Nhà tôi của Yên Thao, Đôi mắt người Sơn Tây của Quang Dũng, Tống biệt hành của Thâm Tâm, Lời mẹ dặn của Phùng Quán… Thấy tôi có giọng đọc, ngâm thơ được, đôi lúc các anh Trường Sơn, Tần Hoài Dạ Vũ… nhờ tôi trình bày thơ của các anh tại các cuộc này. Trong môi trường văn hóa, văn nghệ ấy tôi được các anh tin cậy, thương yêu và tôi rất sung sướng khi được hòa nhập vào tấm lòng, vòng tay văn nghệ thân ái, bao dung của những con người tài hoa xứ Huế, trong đó có nhà thơ Ngô Kha, anh đã cho tôi về ở chung với anh tại nhà số 42, Bạch Đằng, bên dòng sông Gia Hội. Việc về ở chung với anh là một hạnh phúc lớn, bất ngờ đối với một cậu học trò tỉnh lẻ như tôi.

Đến bây giờ tôi vẫn hình dung được gương mặt anh Ngô Kha với đôi mắt đẹp, đầy tình sau gọng kính, với nụ cười nhân hậu trên bờ môi luôn hồng cùng giọng nói ấm, truyền cảm, giàu sức thuyết phục người khác. Ngoài chất lãng mạn, trữ tình của anh, tôi còn tìm thấy bên trong người nghệ sĩ hào hoa ấy có những đức tính quý báu về sự quả cảm, khí phách, cương nghị, trung thực cùng chất lửa luôn hừng hực những khát vọng về sáng tạo thi ca, về hòa bình, thống nhất đất nước.

Về với anh, tôi mau mắn tiếp cận với tập thơ Hoa cô độc, xuất bản năm 1961, tập thơ mà theo nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người bạn cùng thời, chí cốt của anh sau này đã viết: “Những năm đầu thập kỷ 60 ấy, ngày tháng sao như dài hơn, và Ngô Kha đã rong chơi khắp miền để kết bạn phong trần với loài phù du, để rồi trở về ngồi nhìn cái bóng đơn chiếc của mình đổ dài trên đất rừng trơ hốc đá, nơi một sườn đồi hoàng hôn trên sông Hương…Cái nhìn chính mình Ngô Kha đã bắt gặp trên cánh đồng hắt hiu của linh hồn chàng một loài ác hoa mọc lên từ bao giờ, chàng âu yếm gọi tên nó là “Hoa cô độc”. Hành trình của chàng khởi đầu với niềm kiêu hãnh thầm kín của bông hoa ấy…”.

Hoa cô độc rồi Ngụ Ngôn Của Người Đảng Trí … những dòng thơ giàu hình ảnh, mang tính siêu thực của Ngô Kha đã giúp tôi hiểu và thương yêu anh đã có một thời gian trải nghiệm, quằn quại, dằn vặt với chính nỗi cô đơn sâu thẳm của người thơ:

lời vô tri bay đã cao

như ánh mắt tù trên đỉnh núi

mạch đất quê hương giờ lạnh rồi

sao mắt mẹ còn mở

sách trên án thư cũng ngủ khuây

nhưng hồn mẹ vẫn còn thao thức

con đã đi bao năm

mẹ không rời ngưỡng cửa

và nay

gió cũng tang bồng

nhưng thi sĩ vẫn nằm yên trong nhà tù vĩnh cữu


Đọc thơ anh rồi tìm hiểu thêm quá trình dấn thân của anh trong phong trào đấu tranh yêu nước của đô thị miền Nam, tôi học tập và chịu ảnh hưởng anh rất nhiều trong quá trình tham gia các hoạt động báo chí, xuống đường… chống Mỹ trong những năm 70 của đồng bào, thanh niên, sinh viên, học sinh Huế. Anh luôn nhắc nhở tôi phải luôn có chất lửa trong lòng, đừng bao giờ để tắt. Chữ “feu” là chữ anh hay dùng khi nói về hùng khí của con người trong cuộc sống.

Mỗi đêm, từ căn gác gỗ 42, Bạch Đằng nhiều cuộc gặp gỡ, nói chuyện, tranh luận giữa anh và bạn bè thường kéo dài đến tận khuya. Bên cạnh những nguời thân quen ở Huế, anh Ngô Kha còn tiếp những nhân vật từ Sài Gòn ra như linh mục Nguyễn Ngọc Lan của tạp chí Đối Diện, nhà thơ Diễm Châu, nhà thơ Nguyễn Quốc Thái của tạp chí Trình Bày… Từ những buổi này tôi được tiếp nhận nhiều lượng thông tin quý giá về văn chương, thời cuộc, về nhân cách sống từ anh Ngô Kha và từ bạn bè anh. Tuy nhiên, có đêm vì quá khuya, thèm ngủ, tôi lặng lẽ trốn nằm ngủ trên một chiếc ghế nệm cũ ở trong góc gác. Nửa khuya tỉnh dậy, thấy anh nằm một mình giữa sàn gỗ, dưới ánh đèn đường vàng hắt vào ô cửa sổ tôi càng thấy thương quý anh. Những khi ấy tôi lại thường liên tưởng những dòng thơ anh viết trong Trường ca Hòa Bình (1968):

khi nỗi chết còn in trên dòng máu

thì bài thơ thế hệ vẫn hồng tươi

khi đau thương chỉ còn là mặt trái

của giấc mơ trổi dậy ở trong hồn

như thoáng hiện những bàn tay bão tố

đang cùng nhau góp nhặt ánh triều lên

Ngoài ngôi nhà 42 Bạch Đằng (nhà của người anh ruột anh Ngô Kha) anh Ngô Kha thường chở tôi về ngôi nhà của anh ở Thế Lại Thượng, tại đây anh còn có người mẹ già rất đổi nhân từ, phúc hậu và người em gái tên Huân. Ngôi nhà rường cổ kính, truyền thống ấy cũng là nơi thường diễn ra những cuộc hội ngộ thân tình, ấm áp giữa những người cùng chí hướng, tâm huyết với vận nước. Nhà thơ Diễm Châu cũng đã từng về với anh Ngô Kha nằm dưới tàng cây vải thiều bàn luận chuyện văn chương, thế sự. Trong một bài thơ về Huế, Diễm Châu đã viết về hình ảnh cây vải rất có hồn, như một kỷ niệm tuyệt đẹp không thể mất trong mạch nguồn thi tứ.

Ở bên anh Ngô Kha, tôi không những được quen biết, tiếp xúc với rộng rãi bằng hữu , thân quyến của anh mà còn biết đến nhiều thế hệ học trò được anh dạy văn chương từ các trường Quốc Học, Hàm Nghi, Nguyễn Du, Hưng Đạo…Quý thương, kính trọng anh, học trò anh đã từng tổ chức những cuộc xuống đường đòi nhà cầm quyền Thừa Thiên Huế phải trả tự do cho thầy Ngô Kha mỗi khi thầy bị bắt. Qua chuyện thầy trò Ngô Kha đã làm sáng lên tinh thần tôn sư trọng đạo của người dân Huế. Chính tinh thần ấy luôn ươm mầm và lớn mạnh, xanh tươi trong tuổi trẻ học đường Huế cho đến hôm nay cái hào khí quê hương, cái tình yêu dạt dào, thiết tha dành cho mảnh đất Huế trữ tình, thơ mộng cùng sức đề kháng quyết liệt chống lại những toan tính thấp hèn muốn làm Huế đổi hình, biến dạng.

Với anh Ngô Kha, tôi con học được cách làm báo đấu tranh của anh, dù thời ấy chỉ là những trang báo ronéo thô ráp. Tờ Tự Quyết (1970) của nhóm trí thức đấu tranh do Ngô Kha chủ biên cùng với Trịnh Công Sơn, Trần Viết Ngạc, Lê Khắc Cầm, Chu Sơn, Thái Ngọc San; Tập san Mặt Trận Văn Hóa Dân Tộc Miền Trung (1972) của Mặt Trận Văn Hóa Dân tộc Miền Trung do Ngô Kha làm chủ tịch dù mỗi tờ chỉ ra được 2 số thì đình bản nhưng những trang báo đó đã tạo được những dư luận tốt trong xã hội, trong nhiều tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên, sinh viên học sinh thời bấy giờ, góp phần không nhỏ trên mặt trận đấu tranh đòi quyền tự quyết dân tộc, trên tuyến đầu chống âm mưu xâm lược văn hóa lai căng của Mỹ. Mỗi trang báo chính luận đấu tranh của Ngô Kha, mỗi dòng thơ của Ngô Kha ngời lên ánh lửa chính nghĩa, lạc quan dự báo một tương lai đất nước mình phồn vinh:

ta cũng sẽ không còn

ở mãi trong vòng đai ngục tù thành phố

vì ta phải thấy

và nhất định thấy

ngày kia

một đô thị vàng trên đồi Lao Bảo

một thị trấn yêu kiều qua ngõ làng Vây

( Cho những người nằm xuống, 1971)

Ngày nay, khi có dịp lên Lao Bảo, Quảng Trị tôi mới thấy được khả năng dự báo, tiên tri của nhà thơ Ngô Kha. Lao Bảo hiện đang sầm uất lên trên vùng biên giới Việt Lào.

«Chiến dịch Bình Minh» tháng 4.1972 của Mỹ và nhà cầm quyền Thừa Thiên Huế đã bắt hàng ngàn đồng bào, thanh niên, sinh viên, học sinh, trẻ em ra Côn Đảo. Tại ngục tù Côn Đảo tôi không liên lạc được với phong trào Huế và anh Ngô Kha nữa. May là ngày tôi bị địch bắt vẫn còn đội trên đầu chiếc mũ bê rê của anh cho. Mũ bê rê trở thành một kỷ vật thiêng liêng mà tôi trân trọng gìn giữ cho đến ngày thoát ly lên rừng vào tháng 9.1973.

Ngày 8.3.1973 địch trả tự do tôi, Hoàng Thị Thọ, Lê Thị Nhân tại Huế sau gần 12 tháng bị đày ải, giam giữ trên Côn Đảo. Tôi bàng hoàng nghe chị Bành Thị Cừ, chị dâu anh Ngô Kha ở 42 Bạch Đằng báo tin anh Ngô Kha đã bị địch thủ tiêu ở trong tù sau hiệp định Paris. Vĩnh viễn tôi đã hết được nhìn thấy và gần gũi một người anh, một thi sĩ chiến sĩ cách mạng quả cảm, trung thực. Khi ấy tôi có cảm giác đớn đau là mình đã mất đi một điểm tựa trong đời. Không còn anh Ngô Kha bên dòng sông Gia Hội, tôi lại được chị bác sĩ Phạm Xuân Quế đưa vào Viện Bài Lao Huế cho đến ngày tổ chức bố trí lên xanh. Trong thời gian ở Viện Bài Lao Huế tôi lại tiếp tục hoạt động với phong trào, làm báo Thái Hòa. Bài thơ cuối cùng của anh trước khi bị bắt và bị thủ tiêu công bố trên báo Thái Hòa số kỷ niệm Hùng Vương 4.1973 tôi đã lấy bốn chữ đầu trong câu thứ sáu để đặt tên Mai có hòa bình và chọn hai chữ Chính Tâm làm bút hiệu của anh :

Mùa lá đổ thu mơ trời tháng tám

Nhớ nhau thì về chẳng quản đường đi

Ngày xưa đất nước phân kỳ

Em theo tiếng gọi quên thì gấm hoa

Tin em trao về hồng như nụ chín

Mai có hòa bình khác thể yêu đương

Đường dù ngái đi rừng chen lớp lớp

Nhớ nhau thì về cho kịp trời thu


Sở dĩ không lấy tên Ngô Kha vì chúng tôi vẫn còn hy vọng anh đang còn sống trong tù ngục kẻ thù. Chính Tâm, cái tên đặt dưới bài thơ biểu hiện tấm lòng, trái tim anh chân chính, trung thực một đời thơ. Bài thơ Mai có hòa bình sau đó đã tiếp tục đăng tải trên tạp chí Đối Diện số 65-66 tháng 12.1974 ; được bác sĩ Trương Thìn phổ nhạc và trở thành một bài hát rất quen thuộc trong phong trào sinh viên học sinh Huế. Anh Ngô Kha đã và đang sống mãi với thành phố Huế dấu yêu bằng thơ ca âm nhạc, bằng tinh huyết, khí phách của người thơ.

Anh Ngô Kha ! Cho đến hôm nay, ngọn lửa mà anh hằng tiếp truyền cho em, em vẫn đang trang trọng giữ gìn: khi tình yêu thổi bùng lên cơn gió, giữa mùa xuân ngọn đuốc mặt trời...

 

tho%20vietnam%20by%20buituan%20(6)
Poster giới thiệu về Ngô Kha do Phan Huyền Thư thực hiện tại Ngày thơ Việt Nam lần 5 ở Hà Nội.

 

THƠNGÔ KHA

 

Mai có hoà bình

 

Mùa đổ lá thu mơ trời tháng tám

Nhớ nhau thì về chẳng quản đường đi

Ngày xưa đất nước phân kỳ

Em theo tiếng gọi quên thì gấm hoa

 

Tin em trao về hồng như nụ chín

Mai có hoà bình khác thể yêu đương

Đường dù ngái đi rừng chen lớp lớp

Nhớ nhau thì về cho kịp trời thu

 

Trời có tơ đan nắng hanh vườn cũ

Áo thô bạc màu hẹn buổi vinh quy

Chim vỗ cánh bay theo đàn tình tự

Xứ mẹ con về góp hội trùng tu

 

Người rời đỉnh non cây tì dốc núi

Một bước về xuôi một quyết đổi đời

Nếm mật Trường Sơn nằm gai chiến sĩ

Cơm áo hoà đồng gánh cả đôi vai

 

Con nước phù sa đắp bồi thành luỹ

Giọt máu kiên cường nuôi lúa đồng hoang

Em vẫn dày công trên đường kháng chiến

Mai có anh hùng chí hướng bền gan.

 

(Theo báo ĐỐI DIỆN số 65-66 tháng 12-1974)

Đây là bài thơ cuối cùng của Ngô Kha trước

khi bị bắt và bị thủ tiêu.

 

Người con trai

 

-Cho Tường –

Người con trai ấy ngủ
buổi chiều đem lại cành dương
và đóa hoa thơm
nhớ đừng quên nụ hôn 15 trên đôi mắt
người con trai ấy chẳng bao giờ gặp em
nhưng anh sẽ không thấy nó nhìn hoang liêu khi tỉnh dậy
trời còn mưa nên nó còn đau khổ
mùa hạ nước đầy hơn tháng chạp
nó trốn chạy khúc nhạc buồn gợi nhớ tên em
nên trở về đây
ôm tượng đá lạnh lùng tưởng linh hồn con gái
trời mưa mùa hạ
trên bãi cát vàng
mặt trời vật mình than khóc
nó nhìn khói vương
ở cuối đường này
những hình đốm đen
lều tranh tiêu điều hồng lên sắc máu
những người tị nạn
nó đốt lên nụ cười le lói
mái tóc rủ buồn tha ma
chiều đi hấp hối
trở về ôm bóng người yêu
hốt hoảng
Ước mơ em làm dòng sông
để soi mình thấy bóng
xin vào trú ẩn lòng em
đêm nay
muốn về bên này dạ hội
Em bỏ ra đi !
những ngọn đèn tím đỏ
viễn phương còn là thành phố
nó đớn đau rời qua Phi châu làm quân tình nguyện
con đường bệnh hoạn hôm nay
nếu được gần em
chỉ cầm một âm giai
thì chúng ta đâu còn đơn lẻ
anh vẫn thương đứa con trai lạc loài
nếu một ngày mai
nó say lên
tay cầm vừng trăng ném xuống công viên
anh chỉ thấy đời dài bằng cô độc

 

Nhà thơ Ngô Kha, sinh năm 1935 tại làng Thế Lại, TP Huế. Tốt nghiệp thủ khoa khóa 1, Đại học Sư Phạm Huế (1958-1959), cử nhân Luật (1962). Dạy văn ở các trường Quốc Học, Hàm Nghi, Nguyễn Du, Trần Hưng Đạo, Huế từ năm 1960-1973. Tham gia "chiến đoàn Nguyễn Đại Thức", chiến đoàn quân đội chế độ cũ ly khai chống Mỹ - Thiệu - Kỳ, 1966. Chủ trương nhóm Trí thức đấu tranh Tự Quyết, 1970 và làm Chủ tịch Mặt trận Văn hóa Dân tộc Miền Trung, 1972. Bị chính quyền chế độ cũ bắt 3 lần, vào các năm 1966, 1971, 1972 và bị thủ tiêu bí mật sau hiệp định Paris, 1973. Được nhà nước truy phong liệt sĩ sau năm 1975.

 


 

.

NHÀ THƠ – LIỆT SỸ NGÔ KHA: VÀ NAY GIÓ CŨNG TANG BỒNG

 

Trong phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên, trí thức ở  Huế và các đô thị miền Nam, trong các thập niên 60 và 70 của thế kỷ trước Ngô Kha đã xuất hiện như một gương mặt nổi bật nhất. Theo trí nhớ của những người bạn từng sát cánh bên anh trong những ngày biến động ấy, Ngô Kha là một con người có cách ăn nói hùng hồn, lý luận sắc bén, trình bày có sức thu hút mãnh liệt.
Chân dung Ngô Kha

Trước những diễn đàn, anh là một con người có năng khiếu đặc biệt về cách diễn đạt ngôn từ. Là một thầy giáo đã để lại nhiều ấn tượng đối với các thế hệ học sinh ở Huế. Phát tiết tài hoa trên nhiều lĩnh vực, anh là tác giả của nhiều truyện ngắn, thơ, chính luận đăng trên các báo, tạp chí công khai ở miền Nam trước ngày giải phóng.
Theo tài liệu của tác giả Nguyễn Duy Hiền đã công bố trong tác phẩm Ngô Kha - Ngụ ngôn của một thế hệ, do NXB Thuận Hóa ấn hành tháng 12/2005: Nhà thơ Ngô Kha sinh ngày 2/3/1935, tại làng Thế Lại Thượng, phường Phú Hiệp, thành phố Huế (thời gian năm sinh trên đây là qua xác nhận của bà Ngô Thị Huân - chị ruột Ngô Kha. Vì các giấy tờ tùy thân của Ngô Kha nay còn lưu lại ghi năm sinh của nhà thơ là 1937).
Ông là con út trong một gia đình khá đông anh em (4 trai, 3 gái). Thân phụ của nhà thơ là cụ Ngô Tuyên, làm quan nhà Nguyễn, từng giữ chức tri huyện Lệ Thủy (Quảng Bình), rồi chánh án Quảng Bình. Trong gia đình, cả 7 anh chị em đều được cha mẹ cho ăn học tử tế. Ngô Kha tốt nghiệp thủ khoa khóa 1, Đại học Sư phạm Huế (1958-1959), cử nhân Luật khoa (1962), rồi trở thành giáo sư dạy Văn và Công dân ở các trường Quốc học, Hàm Nghi, Nguyễn Du, Hưng Đạo (Huế) từ năm 1960 cho đến ngày bị địch bắt và thủ tiêu vào năm 1973.
Qua nhiều nguồn tài liệu và sách báo, chúng ta biết rằng: Vào những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, ở miền Nam Việt Nam và ở Huế, một bộ phận giới trẻ, đặc biệt là học sinh sinh viên quá thất vọng trước chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm và sau đó là của các tướng tá võ biền thối nát…
Trên những con đường rợp bóng cây xanh vốn dĩ rất bình yên của xứ Huế, lúc bấy giờ người ta đã bắt đầu thấy sự xuất hiện của những cuộc tranh đấu Phật giáo, các cuộc biểu tình của tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, học sinh sinh viên chống lại chính quyền đương thời. Lúc ấy, những người trẻ tuổi không thể ngồi yên trên ghế giảng đường, vùi đầu vào trang sách của Albert Camus hay J.P.Sartre để đàm luận về những khái niệm “dấn thân”, “nổi loạn” và “thân phận con người”…
Chính những khái niệm ấy đã thực sự ám ảnh họ, thúc giục họ cùng dắt tay nhau bước ra đường phố để nhìn thật rõ bản chất của cuộc chiến tranh, nhìn thật rõ khuôn mặt của quân thù. Trí thức trẻ Ngô Kha những ngày ấy đã xông xáo dấn thân với phong trào tranh đấu.
Nhiều tác phẩm văn chương và chính luận của anh thường xuyên được đăng tải trên các báo, tạp chí công khai ở miền Nam như: Trình Bày, Mai, Đất Nước, Đối Diện, Hướng Đi, Tin Tưởng, Tự Quyết, Mặt Trận Văn Hóa… cùng với những người bạn cùng thời như Bửu Ý, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trịnh Công Sơn… và chính những tác phẩm đó đã gây nên một tầm ảnh hưởng rất lớn đối với anh em học sinh sinh viên tranh đấu trong những ngày đầy biến động ở miền Trung.
Để dấn thân vào phong trào đấu tranh lúc đó, Ngô Kha đã tham gia sinh hoạt với các bạn đồng niên trong nhóm “Quán bạn” với Trần Quang Long; “Tuyệt Tình Cốc” với anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan. Họ đều là những người trẻ tuổi cùng chí hướng, cùng có những năm tháng dài sát cánh bên nhau trong phong trào đấu tranh đô thị để lên án sự hà khắc, thối nát của chính quyền đương thời…
Tháng 1/1990, trong một bài viết về nhà thơ - liệt sĩ Ngô Kha có tựa đề là Nhớ Ngô Kha, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết: “…Con người hành động mãnh liệt đã đến với anh sau nhiều năm đầy day dứt và ám ảnh về lẽ sống, về tuổi trẻ và vận mệnh đất nước, và điều đó còn để lại những dấu tích thật sâu đậm trên chặng đường dài gian khổ của thơ anh”.
Trong không khí náo nhiệt và nhiễm độc của văn nghệ tâm lý chiến được tung ra khắp phố phường miền Nam trong những năm 60, thơ Ngô Kha (năm 1961- Ngô Kha cho xuất bản tập thơ đầu tay mang tên Hoa Cô Độc - NV) xuất hiện như một nỗi buồn lặng lẽ và trong sạch, thực chất là một thái độ hoài nghi và dừng lại trước lẽ sống bịa đặt mà bọn Mỹ và Ngô Đình Diệm đang rao hàng hết hơi trong tuổi trẻ thời buổi ấy. Ngô Kha nói thủng thẳng với bóng mình: Lần hồi sinh trên con tàu cuối cùng/ Chung quanh anh phù sa cát đỏ/ Anh hỏi thầm về đời mình: Gỗ đá có buồn không? Chim chóc có buồn không?.
Sau khi cho ấn hành tập thơ Hoa Cô Độc, Ngô Kha lại cho ra đời tập Ngụ ngôn của người đãng trí. Đây là tác phẩm mà Ngô Kha gửi gắm rất nhiều tư tưởng và thái độ của mình trong giai đoạn lịch sử mà chính tác giả là chứng nhân. Một bản trường ca hùng tráng mà theo đánh giá của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường thì trong tác phẩm này chứa đựng tất cả ngôn ngữ và hình tượng ám ảnh kinh hoàng về chiến tranh.
Năm 1964, địch đàn áp nhóm “Quán bạn”, cùng với nhà thơ Trần Quang Long, Ngô Kha bị bắt giam một thời gian rồi anh được trả tự do sau những đợt đấu tranh quyết liệt của học sinh, sinh viên đô thị đòi trả tự do cho anh.
Năm 1966, sau khi bị động viên vào Trường Sĩ quan trừ bị Thủ Đức của quân đội Sài Gòn và đóng quân một thời gian ở Đức Hòa, Đức Huệ tỉnh Long An, Ngô Kha trở về Huế, ông tham gia đấu tranh và là một trong những thành viên nòng cốt lãnh đạo đơn vị quân đội Sài Gòn ly khai (về sau đơn vị này lấy tên là chiến đoàn Nguyễn Đại Thức). Cuộc đấu tranh thất bại, Ngô Kha lại bị bắt và bị đày đi Phú Quốc một thời gian. Năm 1970, Ngô Kha chủ trương nhóm trí thức đấu tranh Tự Quyết cùng với Trịnh Công Sơn, Trần Viết Ngạc, Lê Khắc Cầm, Chu Sơn, Thái Ngọc San. Năm 1971, Ngô Kha chủ biên tập san Mặt trận Văn hóa Dân tộc miền Trung, đặt dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Huế.
Nhà thơ, nhà báo Thái Ngọc San, một người bạn ít tuổi trong nhóm trí thức đấu tranh Tự Quyết của Ngô Kha nhớ lại: Đầu những năm 70, thầy giáo, nhà thơ Ngô Kha xuất hiện như một ngọn cờ, hô hào bãi khóa, xuống đường và khởi thảo các bản tuyên ngôn, tuyên chiến với chế độ Sài Gòn. Những bài thơ mới của Ngô Kha trong giai đoạn này là những khúc tráng ca mang đầy dấu ấn của thời cuộc: Bài ca tự quyết, Cho những người nằm xuống, Trường ca Hòa bình… Chính vì vậy mà nhà chức trách đương thời ở Huế đã rất điên cuồng tìm mọi cách để triệt hạ ngọn cờ Ngô Kha.
Anh Nguyễn Công Thắng, một người học trò cũ của thầy giáo Ngô Kha đã nhớ về người thầy đáng kính của mình: Những giờ học với thầy Kha bao giờ cũng để lại ấn tượng sâu sắc. Thay vì giảng bài một cách “hiền lành” như nhiều thầy giáo khác, thầy Ngô Kha dường như chỉ bình luận thời sự, biến giờ học thành một cuộc đối thoại sinh động về ý thức công dân trong một xã hội nhiễu nhương về dân chủ và cách mạng dân tộc, về chiến tranh và hòa bình.
Tháng 1/2005, trong bài viết Bài ca bi tráng của phong trào đô thị Huế, nhà thơ - nhà báo Thái Ngọc San có kể lại rằng: Trong những ngày chính quyền đương thời ở Huế tìm đủ mọi cách để kìm hãm những hoạt động tranh đấu của anh em phong trào mà mũi nhọn tấn công của kẻ địch không ai khác là Ngô Kha.
Có một đêm, Ngô Kha đưa Thái Ngọc San về căn nhà của mình ở làng Thế Lại Thượng và đã tâm sự một điều tận tâm can muốn thổ lộ từ lâu: Đó là việc Ngô Kha muốn gặp lãnh đạo cách mạng nội thành Huế để tâm tình và nhờ Thái Ngọc San tìm cách liên lạc giúp. Nhưng không ngờ lời tâm tình ấy đã trở thành một lời trối trăn vĩnh cửu vì sau đó không lâu Ngô Kha bị sa vào tay giặc và bị thủ tiêu, Thái Ngọc San thoát ly lên chiến khu và hai người vĩnh viễn không bao giờ gặp lại nhau từ đó.
Lời kể của nhà thơ - nhà báo Thái Ngọc San rất trùng khớp với câu chuyện giữa nhà thơ Ngô Minh với nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Có lần, vì biết ông Tường là bạn chí thân với Ngô Kha nên Ngô Minh thắc mắc rằng vì sao lúc đó “Tổ chức” không tìm cách để đưa Ngô Kha lên chiến khu? Ông Tường bảo rằng, ngày ấy “Tổ chức” đã liên lạc với Ngô Kha nhưng khi Kha chưa kịp đi thì bị bắt. Cũng có thể Kha chần chừ giữa việc lên rừng với ở lại tranh đấu trong lòng đô thị với bạn bè, trong khi đó mật vụ địch theo dõi từng bước đi, nên không thoát được…
Khoảng đầu năm 1973, hai tên mật vụ Lê Đình Liên và Nguyễn Đình Cáp phát hiện Ngô Kha qua cầu Gia Hội và vào nhà 42 Bạch Đằng - nhà của bà quả phụ Ngô Du, chị dâu của Ngô Kha. Chúng sục vào nhà bắt Ngô Kha, nhưng vì bà Ngô Du là công chức rất rành về luật lệ nên chặn lại hỏi: “Các ông bắt người thì phải có lệnh của cấp có trách nhiệm chớ?”.
Hai tên mật vụ ú ớ một lúc rồi để một tên ngồi lại canh chừng Ngô Kha còn một tên chạy về lấy lệnh bắt Ngô Kha do Liên Thành - Trưởng ty Cảnh sát quốc gia Thừa Thiên (học trò cũ của Ngô Kha) ký. Trong lúc chờ đợi, bà Ngô Du bảo với Ngô Kha rằng: “Chú trèo tường phía sau nhà trốn đi, để chị đối phó với mấy người kia”. Nhưng Ngô Kha đã trả lời với chị dâu của mình rằng: “Em làm việc quang minh chính đại thì việc chi phải trốn, cứ để cho chúng bắt”. Quả nhiên, khi quay trở lại nhà bà Ngô Du với tờ lệnh bắt của Liên Thành, những tên mật vụ này đã đưa Ngô Kha đi và anh mất tích luôn từ đó.
Sau khi bắt Ngô Kha, hai tên mật vụ yêu cầu Kha lên xe. Ngô Kha không chút ngạc nhiên bèn hỏi: “Lên xe nào?” Liên đáp: “Xe 67 nầy.” Ngô Kha trèo lên xe. Chiếc xe 67 chở ba người vụt chạy về gặp Thiếu úy Trưởng G đặc biệt Dương Văn Sỏ tại nhà riêng ở đường Nguyễn Thị Giang (bên cạnh quán Bar Why not, 21 Võ Thị Sáu, Huế ngày nay).
Sỏ nói: “Để tau ăn cơm xong rồi sẽ đi báo thượng cấp.” Ăn xong Sỏ đi báo với Trương Công Ân và Ân báo với Liên Thành. Kết quả: Các nhân viên mật vụ vừa bắt Ngô Kha nhận được chỉ thị của Liên Thành là “1.000 năm mây bay”. Đến 4 giờ chiều Ngô Kha vẫn còn ở Ty thẩm vấn. Ân đến hỏi bọn Sỏ: “Sao chưa hành động?” Chúng nói trời chưa tối.
Khi trời tối, mấy đứa Sỏ, Nghệ, Liên, Cáp chở Ngô Kha về hướng cửa biển Thuận An, lấy búa đánh Ngô Kha chết ngay tại Mỹ An rồi trùm bao bố thả xuống một con hói gần đó. Bọn chúng báo cáo với Liên Thành: “1.000 năm mây bay” đã xong và đã giải quyết ở Mỹ An. Liên Thành chửi: “Chúng bây quá ngu, như rứa dân chúng biết răng? Đi vớt lên, kiếm chỗ chôn cho thật kín đáo ngay”.     
Về sau này, nhiều người thân trong gia đình Ngô Kha còn cho biết thêm: Theo lệnh của Liên Thành, xác của Ngô Kha được vớt lên khỏi bờ hói ở Mỹ An, rồi đem về bỏ nằm chết trần truồng trong phòng thẩm vấn.
Không rõ từ nguồn tin nào, ông Phạm Bá Nhạc, Phó Công an quận Hương Thủy biết chuyện ấy, rất đau đớn. Ngô Kha có một người chị là mẹ kế của Phạm Bá Nhạc. Dù sao trên danh nghĩa, Ngô Kha cũng là cậu của Nhạc. Nhạc liền lên Huế xin Liên Thành một ân huệ là cho phép Nhạc mua cho Ngô Kha một cái quan tài. Liên Thành đồng ý với điều kiện phải giữ tuyệt đối bí mật. Nếu để lộ, Nhạc sẽ bị giết ngay. Nhạc cam kết sẽ giữ bí mật tuyệt đối. Ngô Kha được táng ở cồn mồ phía Nam Huế.
Để giữ mạng sống của mình, Nhạc không dám hé môi ngay cả với bà Cao Thị Uẩn, thân mẫu của Ngô Kha. Sau 1975, Phạm Bá Nhạc đi học tập cải tạo. Nhiều năm sau này, trước khi đi định cư tại Mỹ theo diện HO, Nhạc có nói nhỏ cho gia đình biết Ngô Kha đã chết vào ngày 27 tháng Chạp năm Nhâm Tý (nhằm ngày 30/1/1973) chứ không phải ngày 25 tháng Chạp như gia đình và bạn bè của Ngô Kha thường tổ chức kỵ trong mấy chục năm qua.
Gần đây, đối chiếu từ nhiều nguồn tư liệu, Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã khoanh vùng được nơi táng Ngô Kha ở cồn mồ làng An Cựu. Sau năm 1975, cồn mồ đó đã bị giải tỏa san lấp để dựng xí nghiệp gỗ Hương Giang, nay là khu kho ngoại quan phía sau trạm xăng dầu gần Bến xe phía Nam thành phố Huế.
Ngày 1/1/1981, Chủ tịch UBND thành phố Huế đã ký giấy chứng nhận hy sinh số 153 và đề nghị Nhà nước truy phong liệt sỹ cho nhà thơ-nhà giáo Ngô Kha. Ngày 3/11/1981, Ngô Kha được công nhận là liệt sỹ và một con đường ở gần nơi ngày xưa anh sống cũng được mang tên Ngô Kha.
Phan Bùi Bảo Thi
http://vanchuongplusvn.blogspot.com/2013/07/nha-tho-liet-sy-ngo-kha-va-nay-gio-cung.html