Print

Thuốc lá Cẩm Lệ bà Cửu Ới - TIỂU KIỀU

Published Date
Written by Võ Quê
Hits: 10154
 
 
Tưới thuốc trên ruộng. Ảnh: TRƯƠNG ĐIỆN THẮNG
 

Thuốc lá Cẩm Lệ bà Cửu Ới

TIỂU KIỀU

Trong đặc san Quốc Học - Đồng Khánh ở California có một câu đối rất thú vị, tác giả của câu đối độc đáo này có tên Ông Cai trường:

Bà chi tên tuổi thường kêu

Văn giai cửu phẩm, bạn nhiều mụ tra

Bảng đề trước chợ Đông Ba

Phì phèo, bập bập, ai qua cũng dòm

Bảo Thắng đối lại đầy ấn tượng:

Tên bà Cửu Ới khó quên

Thuốc lá Cẩm Lệ Huế mềm lạ chi

Đông Ba dừng lại một khi

Mua vài ba gói Mệ Dì hút chơi

Thuốc lá Cẩm Lệ gốc ở Quảng Nam, du nhập ra Huế vào thời kỳ 1940 -1960, được hầu hết người dân - đặc biệt là phụ nữ  ưa chuộng nên rất đắt khách và nổi tiếng. Dạo ấy, ngay trước mặt chợ Đông Ba - nơi phồn hoa đô hội của thành phố Huế có tiệm  bán thuốc lá Cẩm Lệ, chủ nhân là bà Cửu Ới, vì thế người ta thường gọi một cách thân thiết và đơn giản là thuốc lá Cẩm Lệ Bà Cửu Ới.

Loại thuốc này có màu đen đen, mùi thơm thơm, rờ vào sẽ thấy rít rít, thường được cuộn chặt thành những khoanh tròn như con rắn vậy, dùng một con dao thật bén xắt ra thành từng lát thật mỏng, càng mỏng càng đẹp và có giá trị về mặt chất lượng, nghĩa là khi vấn để hút, từng sợi thuốc mỏng manh ấy quyện dính vào nhau sẽ  góp phần tăng thêm hương thơm đậm đà đặc sắc của vị thuốc Cẩm Lệ.

Thuốc lá Cẩm Lệ  bán - mua theo cân lạng, khi mua ta sẽ được bà Cửu Ới gói thuốc trong lá chuối tươi cốt để giữ cho thuốc có độ ẩm khỏi bị khô, bởi thuốc khô lúc hút sẽ có mùi khét rất dở, cộng thêm một xấp giấy quyến mỏng dùng để vấn thuốc, số lượng giấy quyến  kèm theo này thường tương đương với cân lạng thuốc mình mua, chẳng hạn 1 lạng thuốc thì 10 xấp giấy quyến, hai lạng thuốc thì 20 xấp giấy quyến… Tất cả thuốc và giấy quyến gói trong lá chuối lá chuối, để thêm phần lịch sự và sạch sẽ bên ngoài lá chuối được bao bọc bằng giấy báo. Do vậy - cứ hễ nhìn thấy ai đó cầm một gói giấy hình vuông dẹp mong mỏng, nhẹ tênh, đó chính là gói thuốc Cẩm Lệ của bà Cửu Ới.

Thuốc được vấn thành điếu bởi giấy quyến, giấy quyến là loại giấy mỏng, mỏng hơn giấy pơluya, mềm dịu, màu trắng, khi mua giấy quyến đã được rọc sẵn, chiều dài tuỳ thuộc vào khổ giấy đã quy định của nhà sản xuất, thông thường có thể vấn được khoảng 5- 6 điếu một dung giấy, chiều ngang bằng lóng tay áp út, người hút tự tay vấn lấy thuốc mới có giá trị, một điếu thuốc hoàn chỉnh sẽ có một đầu to, đầu nhỏ, khi hút ta ngậm đầu nhỏ ở miệng, châm lửa ở đầu to.

 Vấn thuốc cũng là một nghệ thuật tinh tế, một điếu thuốc đẹp là phải láng lảy, gọn gàng, đầu to đầu nhỏ cân xứng hài hoà, như thế mới là sành điệu.

Về phương thức vấn thuốc, tuỳ tạng người, người thì lúc nào cần hút thì vấn, có người sáng mai ngủ dậy, bên tách trà thơm thong thả vấn từng điếu một, bỏ vào hộp - hộp đựng thuốc thường rất đẹp được mạ vàng hoặc mạ bạc khá sang trọng - để hút trong một ngày, chỉ một ngày thôi, nếu vấn nhiều hút không hết sang ngày sẽ bị mất mùi, hết ngon! Trông phong thái vấn thuốc ta ngầm hiểu tâm tư, tư chất của người hút, kẻ thì cung cách kiêu sa, vấn thuốc mà mơ màng suy tư trầm tưởng, người thì vội vàng như để sớm được tận hưởng nhanh chóng nhất trọn vẹn nhất miếng ngon ở đời.

Điếu thuốc to, nhỏ thường tuỳ vào hoàn cảnh sống, hạng người sang hèn, giàu nghèo khác nhau, người giàu sang quyền quý vấn điếu thuốc nho nhỏ xinh xinh, bởi nhàn hạ thảnh thơi, lại chuộng cái thanh nhã, vấn thuốc - hút thuốc cũng là một thú vui  bất kể thời gian. Nông dân, đầu tắt mặt tối suốt ngày, ăn chắt mặt bền, vấn một điếu thật to để hút cho lâu hết, khỏi mất công và cũng để tự tìm kiếm cảm giác đã thèm! hút xong điếu thuốc, sẽ còn dư một chút tàn,  tiện tay dán tàn thuốc vào chân giường, cột nhà  - một cách để dành khi hết thuốc chưa kịp mua hay không có tiền thì sẽ lấy tàn ấy vấn lại mà hút cho đỡ ghiền, đỡ tốn!

Ngày trước, phụ nữ Huế, nhất là các bậc lớn tuổi, từ mợ ấm cô chiêu trong nhà quan quyền đến phụ nữ nông thôn bình dân lao động,quanh năm vất vả - đều hút thuốc Cẩm Lệ. Dẫu rằng mỗi người mỗi kiểu, mỗi phong cách, trong nhà quyền quý, các vị phu nhân, các tiểu thư hút thuốc để hưởng thụ thú thanh nhàn, tìm thêm hượng vị cuộc sống riêng tây. Trái lại, người lao động bình dân hút thuốc để tìm hơi ấm cuộc đời qua hương vị thuốc, và cũng như là tự thưởng một niềm vui tinh thần cuối ngày. Cứ thế, càng hút, càng say và thuốc lá đã trở thành một nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, và nhờ đó bà Cửu Ới kinh doanh mặt hàng này phát đạt.

Dạo ấy, cứ vào ngày 01 dương lịch của mỗi tháng, bà nội đi lãnh lương hưu ở kho bạc về, nơi đến đầu tiên bà tiêu tiền là tiệm thuốc Cẩm Lệ bà Cửu Ới, khi xe xích lô vừa xịch đổ, khách - chủ đã vui vẻ chào hỏi nhau - mối ruột mà! thân tình tâm sự, bàn luận, góp ý cho lứa thuốc ngon, chưa ngon trong tháng. Trong nhà, lũ trẻ chúng tôi cứ luôn ngong ngóng đợi bà nội sai đi mua thuốc, ai được ưu tiên chọn thì lấy làm sung sướng, thứ nhất được đi dạo phố có lý do chính đáng, thích thú hơn là được bà cho thêm tiền ăn quà.

Thuốc lá Cẩm Lệ bà Cửu Ới của một thời đã tạo cơduyên cho bạn bè thăm nhau mời nhau điếu thuốc chuyện trò thêm rôm rả, một mình trầm ngâm với khói thuốc có thêm những ý tưởng hay, sáng tạo bao điều kỳ diệu.

  Ngày nay, thuốc lá Cẩm Lệ không còn huy hoàng trên cửa tiệm chợ Đông Ba, còn chăng chỉ có bán lẻ trong các quán nhỏ ở các chợ và thi thoảng xuất hiện trong dịp lễ cúng bái tổ tiên theo nếp cũ mà thôi,trong tâm tưởng của những người Huế, thuốc Cẩm Lệ vẫn còn vấn vương một chút buồn vui thương nhớ dĩ vãng.

 

*

 

Tư Liệu

 

“Mất mùa thuốc lá chết ba ngàn người...

TRƯƠNG ĐIỆN THẮNG

 

Thuốc xắt Cẩm Lệ từ làng Thanh Quýt nổi danh đến mức người xa xứ hàng vài chục năm vẫn nhớ mua để dành trong túi xách, thi thoảng tự tay quấn một điếu nhỏ, hút vài hơi để nghĩ đến quê nhà...

Ở Quảng Nam có nhiều vùng đất nổi tiếng nhờ cây thuốc lá. Tam Kỳ có làng Trường Xuân, Gò Nổi có thuốc lá Bến Đền, vùng Điện Bàn giáp Hòa Vang có cả làng nổi tiếng hơn cả là làng Thanh Quýt trồng, chế biến và buôn bán thuốc lá lẫn thuốc xắt... Tất cả những làng nghề đó đang đi dần vào quên lãng vì nhiều lẽ.

Cẩm Lệ có đất Cồn Mô

Ba Yên - hoa khói lừng Thanh Quýt

Cẩm Lệ nổi danh đất Cồn Mô

Thuốc lá Thanh Quýt vang danh hơn cả trong các làng nghề ấy nhờ nghệ thuật thâm canh cao, kỹ năng chế biến tinh xảo và tạo ra được một thị trường thuốc xắt rộng khắp cả nước. Tuy người hút loại thuốc khá nặng khói này nay đang ít dần khiến cho thị trường tiêu thụ bị thu hẹp lại nhưng đến các TP từ Đông Hà, Quảng Trị đến Đà Lạt, TP.HCM... mà vào bất kỳ một tiệm bán thuốc xắt Cẩm Lệ nào để hỏi quê quán người chủ, tôi bảo đảm trên 90% trong số họ sẽ trả lời là người từ làngThanh Quýt ra đi!

Tôi đưa nhà dân tộc học Nguyễn Tùng ở Pháp đến Thanh Quýt vì ông nghe ở đó có ngôi đình cổ khá đẹp. Thăm đình, thấy có bàn thờ tổ nghề thuốc lá lại là thuốc xắt mang tên Cẩm Lệ, ông lại đòi đi thăm các hộ chế biến thuốc...

Nghề trồng thuốc lá ở làng này không biết có từ bao giờ. Người ta kể rằng những bậc tiền hiền từ Thanh Hóa, Nghệ An hoặc Hải Dương vào đây hơn 500 năm trước đã mang theo giống thuốc lá có tên là Bông Viên hay thuốc lá “cán muỗng” - có lẽ do lá dài như chiếc cán muỗng vào trồng. Đầu làng có một ngôi chùa cổ ban đầu cũng mang tên là Ba Yên Tự. Cũng có vài cụ già giải thích Ba Yên có nghĩa là hoa khói. Ngôi chùa làng ngoài việc tín ngưỡng (trong gian thờ có tượng Phật và 18 vị La Hán) còn thờ cả vị tổ nghề trồng thuốc lá... Ngôi cổ tự đã bị bom đánh sập những năm đầu thập niên 1970, nay người dân chung sức trùng tu lại và lập hẳn một bàn thờ tổ nghề thuốc lá trang trọng để con cháu nhớ lấy.

Ông Tùng hỏi: Nhưng sao lại có tên thuốc lá Cẩm Lệ?

Một lão nông kể: Ngày xưa, dân làng Thanh Quýt đông nhưng ít đất phải đi thuê đất khắp nơi để trồng thuốc lá. Thời phong kiến, tổng Thanh Quýt có địa giới rộng đến gần sát Cẩm Lệ ở ngoại vi Đà Nẵng. Cẩm Lệ có đất Cồn Mô (nay thuộc phạm vi sân bay quốc tế) nổi tiếng trồng thuốc ngon, chế biến thành thuốc xắt rất được ưa chuộng, nhất là ở thị trường Huế nên các hộ chế biến thuốc xắt lấy luôn địa danh Cẩm Lệ làm “thương hiệu”.

Nghề chơi cũng lắm công phu

Người Thanh Quýt trồng thuốc không như những nơi khác và bằng một kỹ thuật thâm canh “rất trình độ”. Họ tìm hiểu những nơi có loại đất cát pha phù hợp, đánh đất thành luống, trồng và chăm bón đến bốn đợt trong mỗi vụ trồng kéo dài khoảng ba tháng. Mỗi kỳ chăm bón đều có một công thức pha trộn các loại phân, vôi, bột bánh dầu khác nhau... và tuyệt đối không có phân hóa học. Sản phẩm thu hoạch trong từng đợt chăm bón tuy đều là lá thuốc nhưng có tên gọi khác nhau: lá chân, lá xai, lá cơi, lá nhứt, lá nhánh. Khi không còn chăm bón nữa mà cây vẫn còn khỏe, lại có hai kỳ sản phẩm khác được tận thu gọi là thuốc nhóc và thuốc bông. Sau đó mới chọn những cây khỏe nhất để lấy bông và hạt làm giống cho vụ sau.

Sản lượng chính của cây thuốc là thuốc nhứt. Mỗi sào (500 m2) thường trồng khoảng 700 cây, mỗi cây chỉ lấy bốn chồi, mỗi chồi chỉ để lại từ 12 đến 13 lá thuốc nhứt. Lá thuốc nhứt khô được ủi (là) đặt tên là “thuốc đẩy” dùng làm “lá áo” để cuốn những loại thuốc nhánh, xai, cơi, nhóc (sau khi đã tước hết cọng, tẩm các vị thuốc Bắc nấu chung với cọng thuốc)... bên trong thành những cuốn dài 2,5 mét, đường kính độ 3,5 cm. Những cuộn thuốc này được đưa vào một máy xắt thành những lát thật mỏng trước khi bán lẻ cho người hút.

Thương hiệu “thuốc xắt Cẩm Lệ” đã vươn xa đến các đô thị như Huế, Đông Hà, Quy Nhơn, Nha Trang, Đà Lạt, Buôn Ma Thuột, Sài Gòn... Những chủ hiệu thuốc xắt Cẩm Lệ bây giờ đã định cư ở các đô thị trên, tuy quy mô kinh doanh đã thu hẹp nhưng nguồn nguyên liệu là thuốc cuốn vẫn phải nhận từ Thanh Quýt gửi đến bằng xe lửa, ôtô và đôi khi cả máy bay...

Rạng danh “dân thuốc lá gùi”

Ở làng Thanh Quýt hiện có khoảng 7.600 dân, 1.650 hộ, hơn một nửa trong số đó trồng thuốc lá hàng năm. Dân làng giỏi giang ngoài trồng lúa còn bươn chải với rất nhiều ngành nghề thủ công, thương mại, dịch vụ nhưng thuốc lá và chế biến thuốc xắt vẫn là nguồn thu nhập chính. Thời bao cấp, tôi đưa nhà văn Phan Tứ về thăm, đến nhiều cơ sở chế biến thuốc lá lẫn cơ khí đa dạng ở đây, ông từng nói vui: “Thanh Quýt chẳng khác chi một nước Nhật thu nhỏ của huyện Điện Bàn...”

Những đứa con, đứa cháu có tên tuổi trong giới trí thức sau này như giáo sư toán Lê Tự Hỷ, giáo sư-tiến sĩ Lê Tự Quốc Thắng, các bác sĩ danh tiếng như Nguyễn Hữu Tùng, Nguyễn Hữu Phùng cùng nhiều tiến sĩ, thạc sĩ khác hoặc gần đây, người vừa giành huy chương vàng Olympic tin học quốc tế là Nguyễn Bá Cảnh Sơn... đều là con em của những người dân trồng thuốc lá, đội từng bó thuốc lá hoặc bán lẻ từng lạng thuốc xắt Cẩm Lệ từ hàng chục năm trước. Năm 2008, những người dân cả đời sinh sống dưới những cây thuốc lá đã sung sướng đến chảy nước mắt khi nhận được kết quả: có 61 con em của họ đã thi đỗ vào các trường đại học chính quy, gấp rưỡi năm trước đó!

 

Máy xắt thuốc Cẩm Lệ. Ảnh: TRƯƠNG ĐIỆN THẮNG

 

Hút vài hơi thuốc cho vơi nhớ nhà

Sản xuất, chế biến thuốc xắt cho thị trường, dân Thanh Quýt đi đâu vẫn mang theo một túi thuốc lá để hút. Hình ảnh ấy được các làng chung quanh gọi đùa là “dân thuốc lá gùi”! Những năm chiến tranh, nhiều thanh niên nam, nữ bỏ ruộng thuốc lá tham gia bộ đội, du kích và để lại một giai thoại khá vui: Mấy chị bộ đội, du kích lên rừng vẫn không quên mang theo một túi thuốc lá bên cạnh ruột tượng gạo. Mất ruột tượng gạo nhiều khi không tiếc bằng túi thuốc lá, như một vật bất ly thân. Điếu thuốc lá Thanh Quýt vẫn cháy đỏ dưới những giao thông hào thời chiến, đến nỗi mấy anh bộ đội ngoài Bắc vào tặng cho hai câu lục bát khá ấn tượng:

“Tiếng đồn con gái quê ta,

Mất mùa thuốc lá chết... ba ngàn người!”

Tuy lời ca dao có ngụ ý chê bai nhưng các chị vẫn không bỏ được điếu thuốc lá ấy cho đến ngày hòa bình. Nhiều chị bây giờ còn làm việc ở các đoàn thể địa phương vẫn làm bạn với điếu thuốc lá ngay trong những buổi họp dân làng như một hình ảnh rất tự nhiên, trong khi nhiều “đồng chí nam” đã chuyển ngành qua... thuốc điếu có đầu lọc!

Nhà dân tộc học Nguyễn Tùng hỏi rất nhiều chuyện khi đi thăm những gia đình làm thuốc lá ở Thanh Quýt. Có người thắc mắc: Sống ở bên Tây cả nửa thế kỷ, cắc cớ gì lại hỏi cái thứ ni? Ông mới kể: Về nước nhiều lần từ năm 1976. Mỗi lần về Đà Nẵng, ông vẫn đến hiệu thuốc xắt Cẩm Lệ của ông giáo Cơ ở Ngã Năm mua mấy ngàn thuốc lá để dành trong túi xách. Thỉnh thoảng lại lấy ra, tự tay quấn một điếu nhỏ và hút vài hơi để nghĩ đến quê nhà và tuổi thơ của những năm đi tản cư hồi chống Pháp. Nhưng có điều ông hỏi mà chưa ai ở Thanh Quýt hôm đó trả lời: Trong lúc thị trường thuốc xắt teo lại, có nguy cơ tan rã một làng nghề, tại sao chưa có ai nghĩ đến chuyện chế biến ra một loại thuốc xì gà để đưa ra thị trường thế giới từ một giống thuốc lá rất ngon và để giữ lại làng nghề truyền thống có một không hai này?

Câu hỏi bất ngờ đó khiến cả người viết bài này bối rối!

 

 

*

 

 

Nguồn: Pháp Luật TPHCM Online.