Joomla 1.7 NivoSlider developed by NewJoomlaTemplates in collaboration with best web hosting reviews and ratings.
Print

VÕ QUÊ - VINH DỰ CỦA NGƯỜI LÀM THƠ CHO QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC - HẠNH PHƯƠNG

Image Bài viết của nhà báo Hạnh Phương (Hoàng Minh Phương) đăng trên báo Điện Tín số ra ngày 13. 9.1973.

          HẠNH  PHƯƠNG

 

VÕ QUÊ - VINH DỰ CỦA NGƯỜI LÀM THƠ
CHO QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC
 
 

             Võ Quê (Ảnh: Hồ Tĩnh Tâm)            

     Chưa hân hạnh được một lần gặp mặt. Tôi chẳng biết gì hết về Võ Quê. Nhưng tại sao tôi không thể giới thiệu về một Võ Quê như là rất quen rất biết. Đó là một Võ Quê đã trót sinh ra làm đứa con của một đất nước đau thương. Võ Quê không có cái hân hạnh được lớn lên giữa một nếp sống xa hoa phung phí, giữa một bộ mặt lòe loẹt phấn son, giữa những mái nhà chất ngất, giữa những ánh đèn màu đô hội chói chang. Đọc thơ Quê chúng ta sẽ tìm thấy được hình bóng của một người con trai hiền lành lớn lên giữa một làng quê hiu quạnh bên cạnh người em gái hiền thục, bên cạnh mẹ già khốn khổ. Quê lớn lên giữa những vườn liếp xanh um, giữa những nhánh sông dài vươn tới, giữa những tiếng hát ca dao:

Mùa xuân này anh viết bài thơ
Gởi về em người con gái Quảng
Sống chân thật từ quê nhà mưa nắng
Nuôi niềm tin trong gió bụi nam Lào
Tròn một đời bên bóng mẹ cần lao
Hôm sớm tảo tần nhọc nhằn gian khổ

...
Em đã sống những ngày cơm độn bắp
Chiếc nón cời che nắng đạn mưa bom
Mai Lĩnh vươn mình đứng giữa Trường Sơn
Quê hương ta anh hùng em hí!
Anh nhớ làm răng điệu hò Ái Tử
Mẹ thương con vì Tổ Quốc lên đường
Quên đời mình tóc mẹ thắm màu sương
Mẹ hát con nghe bài ca ái quốc


              (Gởi em cô gái quê nhà)

     Chúng ta tưởng đã nhận diện được một Võ Quê qua tấm lòng thương yêu quê cha đất tổ, thương từng khóm rau luống cải quê nhà, thương từng cụm tre bụi chuối của nơi chốn Quê đã sinh ra. Quê hương của Võ Quê hẵn phải là một vùng đất khô cằn nào đó ở xứ Quảng. Vì có sinh ra ở đó Võ Quê mới nằm lòng từng địa danh quen thuộc, những cõi miền hun hút của non nước xứ Quảng và mang nó vào thơ với những cảm xúc chân thành:
Đất đỏ Gio Linh một chiều mưa móc
Ướt ngọn chè xanh, ướt cả tờ thư
...
Đất Gio An hồng đỏ thắm mặn mà
Vườn Nhĩ Hạ xanh mơn màu lá biếc
Chè Gia Môn đậm đà tình tha thiết
Mẹ vun trồng công khó đã bao năm
Vườn sắn cơm chiều Ba Dốc thì thầm...             

                 (Dấu yêu sao hương đất quê nhà)

     Nhưng trên những bước chân đi tìm chân dung con người làm thơ đó, trôi theo dòng cảm xúc của con người chan chứa tình quê đó chúng ta chợt thấy phải nghi ngờ, phải chối bỏ ngay những điều vừa mới khẳng định. Vì chính thơ Quê cho chúng ta thấy quê hương Quê không phải chỉ được giới hạn trong những vành đai trắng trong những vùng oanh kích tự do ở Gio Linh Quảng Trị. Trái lại quê hương của người thơ bao la hơn, mênh mông hơn. Tâm hồn Quê trải dài trên từng tấc đất theo những giọt tình đau trên khắp cả ba miền, trên hết thảy những chứng tích đau thương mà cả cuộc chiến kéo dài đăng đẳng hai mươi năm đã gây nên.
    
     Chúng ta lại thấy tấm lòng thương yêu của Quê càng đậm đà, càng tha thiết hơn khi đọc những dòng thơ của Võ Quê viết về xứ Thần Kinh:

Huế mưa đông Huế nắng hạ sương chiều
Huế đẹp Huế cười Huế vui Huế khổ
Huế hiền ngoan Huế căm hờn phẫn nộ
Huế trăm năm xưa Huế triệu năm sau
Trước hay sau Huế chỉ một tình đầu
Huế chung thủy trong mối tình đất nước
Huế của dân lành ấp yêu lời hẹn ước
Mơ Huế bình yên trong tiếng hát cung đàn
Hồn ca dao mặn mà nhịp phách tình tang


              (Huế, 1973)

     Chúng ta hãy tưởng tượng một khuôn mặt ưu tư cúi đầu bước đi giữa lòng con phố buồn muôn thuở nhưng cũng anh hùng muôn thuở. Chàng cúi mặt bước đi nhưng cũng không bao giờ quên được những nỗi đau thương đang vây bủa lấy chàng.

     Chúng ta đã thấy có những con người mở mắt thật to nhìn khắp cả tứ bề bốn phía, nhưng chính ý thức họ, chính con người họ, chính tâm tư họ không bao giờ nhìn thấy được gì cả. Trong đôi mắt nhạt mờ sau làn khói thuốc họ chỉ nhìn thấy được những quán hồng nhả nhạc, những sàn nhảy chập chờn, những khuôn mặt bôi son trát phấn. Và họ sẵn sàng lăn xã vào những nơi chốn kia với một niềm kiêu hãnh. Thứ kiêu hãnh của một hạng người phè phỡn vui chơi trên đau thương của đồng loại. Võ Quê không bao giờ và không bao giờ là hiện thân của những con người đó. Trong mắt nhìn thấu suốt đau thương của Quê chỉ có hình ảnh của bà mẹ đi tìm con giữa những con đường lá muối rụng vàng và lòng đau như xót. Trong thơ Quê vội vàng lên nỗi đắng cay của người phu xe còng lưng đạp mãi những chuyến xe nhục nhằn gian khổ, của người em gái quần nâu vá đủng lang thang không cửa không nhà:

Ta yêu Huế những ngày Huế khóc
Nước mắt nhòa ướt áo mẹ tìm con
Lá muối rụng vàng đường lên Thừa Phủ
Mảnh tim già ứa máu héo hon
Muối xát lòng đau ruột thắt gan mòn
Ta thương Huế Huế nghèo câm nín
Âm thầm lê dưới những tàng cây
Người xích lô còng lưng đạp mãi
Chuyến xe nhọc nhằn nặng mỗi vòng quay
Đèn nhà ai ánh nhạc rượu nồng say


              (Huế, 1973)

   Cái nhìn thấu suốt được thực trạng của Võ Quê đã giúp cho chúng ta thấy được những vết thương lớn mà tất cả chúng ta cần chạy chữa. Thơ Quê là những bức tranh tô đậm những màu sắc đau thương của những tháng ngày chinh chiến. Nỗi đau thương như một dòng cảm xúc uất nghẹn nhưng thơ Quê không phải chỉ là những lời thở than nghẹn đắng thốt chẳng nên lời. Trong những khuôn mặt trẻ đi vào dòng văn nghệ cho quê hương chúng ta thấy đôi khi đã có những con người như mất niềm tin. Niềm tin nếu có thì cũng như là mong manh lắm. Mong manh như những sợi khói bay. Võ Quê không như thế.

     Trong thơ Quê bao giờ ta cũng thấy niềm tin dâng lên ngun ngút. Đọc gần hết thơ Quê chúng ta thấy không bao giờ Quê mất niềm tin vào sự sống còn của dân tộc. Một sự sống còn cao hơn tất cả các núi, bao la hơn tất cả các biển và đôi khi đẹp như là một huyền thoại. Thật là vinh hạnh thay khi đất nước có những đứa con đặt niềm tin vào sự sống còn mầu nhiệm đó.

     Võ Quê chưa bao giờ mất niềm tin. Dù có đôi khi lệ ứa đoanh tròng, dù có đôi khi bặm môi căm phẫn, đau thương như ngút mắt, lòng người như tê dại, nhưng Quê vẫn tin tưởng và lòng người son sắt vào sức sống mãnh liệt. Trên từng tấc đất Việt Nam trái tim của người Việt đã kết tinh thành ngọc, gan đã bằng gang và khối óc đã là thành trì sắt thép, tất cả đã trở thành những khí giới mầu nhiệm để bảo vệ lấy từng tấc đất, gia tài hương hỏa cha ông:

Đất chuyển mình quạ sắt cũng phơi thây
Đất đẹp đất thơm đất lành đất quý
Đất anh hùng đất phì nhiêu màu mỡ
Đất thật thà đất nở vạn loài hoa
Đất chứa hào sâu đất đắp đường xa
Đất mọc tre già đất xây công sự
Tình đất nữa ôi sao mà chan chứa
Dấu yêu sao hương đất quê nhà
Lúa rì rào mạch máu chảy trong da

              (Dấu yêu sao hương đất quê nhà)

     Nguồn cảm hứng hiển hiện trong thơ Quê chính là nỗi đọa đày trĩu nặng trên thân thể quê hương đất nước. Những bông hoa thi ca, nếu được gọi một cách thơ mộng như thế thì quả thực những bông hoa thi ca trong vườn thơ của người thơ đó đã vươn lên từ nỗi đớn đau quằn quại ăm ắp của lòng chàng. Những bông hoa kết tụ từ những nỗi đau thương trĩu nặng của cả một đời người, của cả một lớp người, của cả một thế hệ.
 
     Khi nói đến cảm hứng của người làm văn nghệ là chúng ta đối diện ngay với thực trạng cuộc đời. Cuộc sống chính là nơi khơi nguồn cảm hứng người làm văn nghệ bắt gặp trong đời sống đều là ngững nguồn cảm hứng tốt. Vì thế thái độ chọn lựa cảm hứng của mỗi tác giả có tính cách quyết định và xác định được đường hướng của tác giả đó. Thái độ chọn nguồn cảm hứng của người làm văn nghệ cho ta thấy ngay được rằng họ đang đi lên với bước tiến của dân tộc hay trầm xuôi theo làn sóng băng hoại vong thân. Dáng vẻ say sưa của một đứa con trai có tâm hồn yếu đuối bồng bềnh trong nhạc hồng rượu mạnh không còn tuyệt vời đối với những người làm văn nghệ đã nhìn thấy thực trạng đau thương của đất nước. Trong cảnh tượng hỗn độn của sinh hoạt văn học nghệ thuật Võ Quê đã sử dụng đúng mức thứ cảm hứng phát xuất từ công cuộc đấu tranh gian khổ của dân tộc cho nên Quê không mất niềm tin. Quê đã nhìn thấy đâu là cái tốt cái xấu. Đâu là tự do. Đâu là dân tộc. Quê đã nhận thấy đâu là niềm kiêu hãnh của con người và nỗi nhục nhã của con thú. Quê đã cho chúng ta thấy đất nước chúng ta vẫn còn khắp nơi những mẫu người rất nhân bản, những khuôn mặt người không phấn son nhưng vô cùng bình dị và vô cùng thân thiết:

Ngày mai em không nhà cao cửa rộng
Không đón đưa xe ngựa phấn son hồng
Mà đời em là vẻ đẹp dòng sông
Lênh láng chảy nguồn yêu thương bác ái
Mà đời em là trang giấy mới
Chép bài thơ ca ngợi con người
Yêu quê hương yêu đất nước tuyệt vời
Trong tuyệt vọng em giúp người hy vọng
Trong bóng tối em làm nên ánh sáng
Mặt trời dâng chỉ thấy mặt trời dâng

Mà đời em là cánh én mùa xuân
Trong mưa bão em về xanh lá mới

              (Người nữ cứu thương)

     Quê đã mở rộng lòng mình để lắng nghe được tiếng nói vang lên từ lòng nước. Quê mở rộng mắt nhìn để thu lấy tất cả những hình ảnh đẹp của quê hương. Trong thơ Quê chúng ta bắt gặp rất nhiều những hình ảnh đẹp đẽ vô cùng của quê hương đất nước, những hình ảnh mà chúng ta có thể kiêu hãnh nói với bất cứ một người ngoại quốc nào:
Em là cô gái Văn khoa
Bàn tay thục nữ nâng tà áo xuân
Em cười tỏa nắng dòng sông
Bài ca yêu nước về trong mắt huyền
Em yêu yêu tiếng quê hương
Yêu từng vuông đất luống vườn vồng khoai
Ca dao chép những đêm dài
Tim em sống dậy nghìn bài sử xanh

              (Cô gái Văn khoa)

     Và những khát vọng ăm ắp mà Võ Quê diễn đạt trong thơ chính là những khát vọng chân thành nhất của những con người chán ghét chiến tranh, khát vọng đó là khát vọng của hầu hết những người Việt Nam, của hầu hết những người đang lấy đất làm mạch sống, lấy tình người làm chất liệu muôn thuở để chung sống với nhau, những con người vui niềm vui của lúa tốt đầy đồng, cười nụ cười của bông lúa trổ bông và xin mãi sống một cuộc đời hiền hòa muôn thuở bên dòng sông, bên ruộng lúa, giữa những lũy tre xanh. Khát vọng của Võ Quê là khát vọng chung của hầu hết những người bình dị muốn tìm về nơi chốn cũ thân yêu để tìm thấy lại những cái gì đã bị mất mát sau những tháng ngày chinh chiến. Xinh đẹp thay những ước mơ bình dị:

Ta về dựng lại cầu ao
Lũy tre giếng mật kênh đào quê xưa
Em về dệt lụa ươm tơ
Em lên tiếng hát bên bờ sông xanh

              (Cô gái Văn khoa)

     Khi viết những dòng thơ đó chắc chắn Quê đã viết rất thực. Quê làm thơ không phải để nổi danh, không phải để tìm một chút danh vọng hào nhoáng nào đó có thể có. Mỗi dòng thơ Quê là mỗi tiếng nói trung thực nhất mà chúng ta cần phải nghe, những người muốn làm một cái gì cho quê hương đất nước phải biết lắng nghe. Tiếng thơ Quê phải được gởi đến những con người tha thiết yêu quê hương đất nước như tiếng hát ca dao ngọt ngào đã được hầu hết các bà mẹ Việt Nam hát cho hầu hết những đứa trẻ Việt Nam nghe từ thuở mới vào đời.
                                                             HẠNH  PHƯƠNG
                                                          Sài Gòn, 18. 8. 1973.


________________

Nguồn: Báo Điện Tín, ngày 13. 9. 1973




    




   



 

 

 Copyright © 2008 - 2013 Võ Quê All rights reserved.