Joomla 1.7 NivoSlider developed by NewJoomlaTemplates in collaboration with best web hosting reviews and ratings.
Print

TÁC GIẢ TRANG THÙY

Giới thiệu tác giả Trang Thùy

Họ và tên: Nguyễn Thị Thùy Trang
Sinh năm 1978 tại Huế
Tác phẩm:

-
GIỮA HUẾ YÊU THƯƠNG, NXB Thuận Hóa 2019.

- DẤU ẤN CÔN ĐẢO, NXB Thuận Hóa 2020



GIỮA HUẾ YÊU THƯƠNG 

Tùy bút

     Thường vẫn hay nghe người ta nói: "Huế buồn, Huế chán òm"... nhưng riêng tôi, tôi chỉ thấy một Huế thật đẹp, thật thơ qua bốn mùa xuân hạ thu đông.

     Này nhé: Mùa xuân, Huế như một nàng tiên kiêu sa kiều diễm. Muôn hoa đua nở nhưng có lẽ nỗi bật nhất là hoàng mai; hoàng mai Huế thường nở từng chùm xen những cành lá gợn lên một nét thanh tao, dung dị mà vương giả với mùi hương dịu nhẹ. Cho nên mỗi độ xuân về giữa rất nhiều loài mai nhưng người sành chơi vẫn muốn chọn mai Huế để chưng trong ba ngày Tết cổ truyền là vì vậy.

      Hoa mai vàng, nồi bánh chưng nghi ngút khói, mùi bánh thuẩn đưa hương quyện mùi nhang trầm chiều ba mươi Tết trên bàn thờ gia tiên luôn là những gì thiêng liêng nhất để những người con xa xứ lòng luôn đau đáu tìm về những ngày tận cùng của năm.

     Rồi Huế sang tháng Hai, trong tiết trời còn dịu mát, bạn hãy cùng tôi dạo khắp các con đường ở Huế, thấy gì không? Những chùm hoa sầu đông nở trắng từng chùm, khắp các con đường, bên bờ sông, bên những bức thành cổ kính. Sầu đông hay còn gọi là sầu đâu, xoan... thanh cảnh, hương dịu dàng mê hoặc những tâm hồn yêu cái đẹp mỏng manh trữ tình, ấy vậy nên mới có những vần thơ: "Câu thề lỡ hẹn, ví dầu/ Vẫn còn duyên nợ sầu đâu một đời!"

     Dừng chân trên cầu, nhìn xuống dòng Hương, sầu đông trông như cô gái xuân thì đang soi gương chải tóc, lụa là mềm mại. Bên thành cổ, sầu đông gợi nhớ hình ảnh những cung nữ ôm khối sầu trong nội tiếc thời xuân sắc vụt bay. Hoa huyền hoặc, liêu trai trong hương đêm níu chân người quân tử, đắm say cho ai chân không nỡ bước, tình không nỡ rời!

     Lòng còn vương víu những cánh sầu đông thì xin mời bạn lên vườn thanh trà ở Thủy Biều hay vườn bưởi ở Hương Hồ vào buổi sáng tinh mơ khi những giọt sương vẫn còn kết hạt trên từng kẻ lá. Hãy cùng tôi hít một hơi thật sâu để cảm nhận mùi hương dịu dàng từ những cánh hoa trắng muốt lan tỏa tận cùng cảm xúc. Cho ai kia ánh mắt nồng nàn gởi trao; cho ai kia ngại ngùng bối rối. Hừng đông hé lên dần mở ra một ngày mới yêu thương, hẹn nhau cùng thăm lại vườn lúc cây đầy trái mọng.

     Tháng Tư, em nhắn anh: "Huế đang mùa sen nở, anh có về gom hương?”. Quanh hoàng thành, hồ Tịnh Tâm hồng sen, bạch sen nở hoa bát ngát, ngây ngất lòng bao kẻ lạ người quen nên mới có món hạt sen Tịnh Tâm trứ danh để ai một lần đến Huế cũng muốn mua về làm quà. Hai ta bên nhau, bên sen để cùng lắng nghe tim bồi hồi xao xuyến, gió khẽ nhẹ đưa hương bùn ngai ngái, hương sen ngọt ngào để càng yêu thêm hương vị quê nhà. Hương tình chất ngất anh viết tặng em bài thơ hoa sen, em hát anh nghe bài ca hương bưởi, hai ta cùng chung một tình yêu Huế dịu dàng lắng sâu.

     Cùng mùa sen, Huế đã kịp khoác lên mình chiếc áo mới, màu tím bằng lăng, màu hồng hoa giấy, hoa tử vi… và những cung đường Huế rực đỏ một màu phượng thắm. Phượng rơi trải thảm đỏ mọi con đường, phượng làm Huế như đổi thay trong từng mạch sống, nét âm trầm nhường cho sự duyên dáng trẻ trung. Ai đi qua cầu Trường Tiền mà không một lần nao lòng trước gốc phượng ngay dưới chân cầu, những cành phượng mềm mại rũ mình la đà, soi bóng xuống dòng Hương đẹp như một bức tranh để không cầm lòng ghi lại cho mình những tấm hình lưu niệm.

     Mùa tựu trường, nữ sinh Huế áo trắng tung bay như đàn bướm lượn. "Áo qua Đông Ba, áo lên Thượng Tứ, áo về Vĩ Dạ áo ngược Phủ Cam"… Áo trắng chấp chới mọi con đường, cho tim ai bồi hồi xao xuyến, đường phượng bay chiều nay có kẻ si tình cắn bút làm thơ.

     Nhưng, Huế trong tôi không chỉ đẹp trong những mùa hoa, trong từng âm sắc, mà vẫn luôn mang trong mình một Huế thương, một Huế buồn man mác những ngày đông giá. Ngồi cà phê góc Thành nội nhìn bác xích lô đi chở mây, về chở gió; nhìn O bánh canh Nam Phổ chiều về vẫn còn nặng gánh lo toan, thương mẹ khoé mắt chân chim vẫn ngồi bán chuối. Ông trời vẫn cay nghiệt với người miền Trung như thế nên chuyện mưa suốt mươi ngày nửa tháng vốn là chuyện thường ngày.

     Thế nhưng, nếu bạn vốn thuộc típ người thích sống chậm, thích hoài niệm thì thật tuyệt vời vì ở Huế không khó để bạn tìm một quán trà hoặc một quán cà phê yên tĩnh như Trà Om đường Nguyễn Huy Lượng, Trà Đình Vũ Di gần đồi Thiên An hay cà phê Chiều đường Đặng Thái Thân... Ở đó, bạn có thể một mình để thả hồn vào tách trà hoặc ly cà phê suốt một buổi chiều mà không lo sẽ bị chủ quán phàn nàn gì vì dân Huế quá quen với tính cách thâm trầm của mình và nếu gặp may có thể bạn cũng sẽ được mời một củ khoai lang nướng như tôi!

     Người Huế vốn vậy, mộc mạc mà luôn sâu lắng để người đi xa luôn ao ước được trở về. Thì ai đó nhé, hãy kịp trở về để được nắm tay nhau đi giữa lòng Huế, giữa những mùa hoa, cùng lắng lòng để thương Huế đầy vơi những ngày đông giá. Để biết hiện tại này chúng mình đang đi giữa những yêu thương!

 

Ô MÔI GIẤC MƠ HỒNG


     Khi những tiếng ve râm ran báo hiệu một mùa hè rực rỡ cũng là lúc tuổi học trò tạm chia tay trường lớp bè bạn cùng những kỉ niệm bồi hồi luyến lưu. 

     Hoa phượng đỏ, bằng lăng tím là những loài hoa gắn liền với lứa tuổi học trò một thời áo trắng và bên cạnh đó loài hoa ô môi cũng là một loài hoa chất chứa đầy kỉ niệm của thời mực tím mộng mơ.

     Để tim ai bồi hồi xuyến xao khi tình cờ trong hộc bàn mình bỗng xuất hiện một nhành ô môi dịu dàng e lệ.

     Để lòng ai vui sướng khi lén nhìn thấy ánh mắt cô bạn gái ánh lên tia mắt đằm thắm thích thú nâng nhành ô môi và khẽ hôn nhẹ lên những cánh hoa mỏng manh.

     Để trong giấc mơ đêm về nhành ô môi làm hồng những giấc mơ của tuổi. Ngày xanh - dòng lưu bút trao nhau không quên kèm nhánh ô môi như một lời thì thầm nhắn gửi, ước hẹn và động viên trong kì thi sắp tới. 

     Tất cả là những nốt nhạc trầm cho lòng ai vương vấn không nguôi, cho hành trang vào đời những mầm xanh hy vọng và hoa ô môi theo ta trên mọi nẻo xuôi ngược vào đời.

       Bao năm qua, trải dài cuộc đời theo những thăng trầm gió bụi dạt xô sáng nay chợt thấy lòng bình yên lạ kì khi lắng lòng cùng nhành ô môi ấy. Tất cả những xuyến xao tìm về và chợt thấy được gột rửa trong sắc hồng dịu dàng ấy.

     Ô môi trở về cùng giấc mơ hồng tuổi xanh!

 

THÚ HAM ĐỌC SÁCH

     Ngày nay, dường như chuyện đọc sách đã dần dần ít đi với nhịp sống vội vã thường ngày. Thay vào đó là những tiện ích và tính năng nhanh nhạy của những phương tiện truyền thông hiện đại nên đối với một số người việc cầm và đọc hết một cuốn sách dày khoảng ba trăm trang dường như là một điều rất hiếm.

     Không như thời đại chúng tôi của hơn hai mươi năm về trước, háo hức chuyền tay nhau những cuốn truyện chép tay hay đạp xe ba bốn cây số chỉ để được thuê những cuốn tiểu thuyết của Nhất Linh, Vũ Trọng Phụng, Quỳnh Dao... Để rồi đọc ngấu nghiến bên cây đèn dầu leo lét đến khuya mẹ bắt ngủ mới thôi.

     Còn nhớ trong một lần được chọn đi thi học sinh giỏi văn, khi được cô giáo Thuận cho mượn một cuốn sách tham khảo những bài văn hay để trau dồi thêm kiến thức tôi đã mừng vui, cảm giác lúc ấy hạnh phúc nhiều lắm. Cuốn sách đã có mấy trang đã bị bong sườn nhưng với những đứa học sinh như tôi ngày ấy nó quý giá không thể tả xiết.

     Tôi đã bỏ hết những trò chơi cùng lũ bạn đồng trang lứa chỉ để đọc đi đọc lại những bài văn trong đó không sót chữ nào, lòng càng tự nhủ phải cố gắng để không phụ lòng tin yêu của cô.

     Hôm nay, được một người cậu tặng một cuốn sách, mặc dù những bài văn ấy có lẽ sẽ có ích hơn cho con trai của mình nhưng cũng không thể ngăn sự tò mò và cái tật thích đọc trong tôi. Cám ơn cậu đã tặng sách và đưa con quay lại thế giới tuổi thơ trong veo của mình: Cậu Tôn Thất Nam Anh!

 

MỪNG SINH NHẬT CON TRAI YÊU CỦA MẸ:

TRẦN NGUYỄN BẢO KHANH!


     Còn nhớ cách nay 17 năm mẹ chào đón con trong giọt nước mắt hạnh phúc - đứa con trai đầu lòng của mẹ bé bỏng đỏ hỏn từ tay cô y tá.

     Trải qua những giờ phút đau đớn tưởng chừng như khủng khiếp nhất trong đời nhưng khi con cất tiếng khóc oe oe lòng mẹ bỗng dấy lên một niềm yêu thương khó tả, bao đau đớn như tan dần theo tiếng khóc của con. Con trai mẹ đã rất hư đó nghe. Cứ nũng nịu quấy mẹ mãi thôi làm mẹ không thể có một giấc ngủ nào tròn giấc nè!

     Sinh con trong tháng nắng nóng cực kì với bao nhiêu là những kiêng cữ của bà ngoại khiến nhiều lúc mẹ tưởng sức mình kiệt quệ. Từ nhỏ đến giờ mẹ chưa bao giờ thấy mình vất vả như vậy, chưa bao giờ phải vừa chịu đựng đau đớn vừa phải chăm con suốt đêm ngày. Nhất là ban đêm, không hiểu sao mà con khóc triền miên, khóc thét lên làm mẹ hết sức lo lắng, mẹ tưởng có con gì cắn con đau, nhất la hôm đầy tháng con, con khóc suốt và đến khi ba tháng con mới bắt đầu ngoan hơn.

     Bảo Khanh của mẹ dần lớn lên bụ bẫm dễ thương khiến ai cũng muốn bồng bế cả và điều làm mẹ vui và tự hào là người ta khen mẹ mát sữa nên con mới chóng lớn như vậy. Thương nhất là đoạn con tập đi, mỗi lần ngã té là con khóc nhưng khi nghe mẹ dỗ dành: "Tự con ngã thôi mà có ai xô con ngã đâu nên hãy tự đứng dậy nhé!". Thế nên nghe mẹ nói vậy là con nín khóc và tự mình đứng dậy liền mà không đợi mẹ phải chạy tới đỡ.

     Năm tháng trôi qua, rồi con trai mẹ vào lớp Một, lớp Hai, lớp Ba lần đầu tiên con được giành giải ba toàn trường môn cờ vua, chỉ một thành tích nho nhỏ của con thôi nhưng mẹ thấy tự hào biết bao. Mẹ cẩn thận mua khung ép bằng khen của con rồi treo lên để hàng ngày ngắm con với niềm tự hào nho nhỏ của ba mẹ!

     Mới năm ngoái sức học của con giảm sút mẹ đã rất buồn nhưng mẹ cố nén buồn để động viên con; đến bây giờ mẹ đã thật sự vui khi thấy con có sự tiến bộ, con đã được vào đội tuyển học sinh giỏi Anh văn của trường; và mới đây con mừng rỡ khoe mẹ nhiều điểm tốt khiến mẹ vui mừng xiết bao!

     Con yêu, con đã thật sự trưởng thành hơn trong mắt mẹ. Qua nhiều lần trao đổi với con mẹ nhận ra con có trách nhiệm với gia đình, có những suy nghĩ chín chắn hơn, nhưng nói vậy không có nghĩa là mẹ khen con toàn diện. Con còn có những mặt hạn chế như hay đợi mẹ thức dậy mới đi học, ban đêm con thức khuya nhiều và dễ nóng giận trong cư xử với em Hiếu đó con.

    Hôm nay sinh nhật con, mẹ viết cho con những lời yêu thương, dù mẹ không dám nhận mẹ là một người mẹ hoàn hảo, còn nhiều điều mẹ vẫn chưa làm được cho con trai của mẹ. Nhưng con ơi mẹ sẽ cố gắng hết sức mình để yêu thương con với một tình yêu bao la vô bờ bến. Con nghe! Mẹ con mình còn là bạn bè nữa phải không nào?

 

VIẾT CHO CON NHÂN MÙA TRUNG THU

     Tiếng trống lân lại rộn ràng ngoài ngõ, một mùa trung thu nữa lại về. Lòng mẹ lại bồi hồi một cảm giác thật khó tả, mẹ nhớ về những mùa trung thu cũ của mẹ năm nào của thời mẹ lên bảy lên mười.

      Con biết không, thời đó mỗi lần trung thu đến mẹ lại được ông bà ngoại chở mẹ cùng các dì cậu của con đi chơi qua các dãy phố Trần Hưng Đạo, Phan Đăng Lưu... để xem múa lân.

     Khắp mọi ngõ ngách của thị thành, từ phố phường nhộn nhịp hay êm đềm của thôn quê đều rộn ràng tiếng trống lân. Nhưng ôn ngoại hay chở mẹ qua những con phố đó, bởi vì bên ấy thường có những đoàn múa lân to và đẹp.

     Chen chúc và ngắm nhìn chán ôn lại chở các con về và không quên mua cho các con những chiếc bánh trung thu được làm thủ công mà hương vị của nó bây giờ mẹ vẫn còn nhớ mãi.

     Lớn thêm tí nữa mẹ và các bạn cùng xóm hay lấy chiếc nón cũ của bà ngoại rồi lấy những tờ giấy vở còn dư của năm học cũ dán lên và dùng phẩm mà tô lên làm lân; mua chiếc trống bé tí rồi lén lấy hai chiếc nắp xoong của bà ngoại, xong đâu đấy cùng kéo nhau đi múa inh ỏi khắp xóm xin tiền.

     Qua ngày 16 cùng nhau ngồi lại lấy tiền “thu hoạch” được mua bánh ăn trung thu. Vậy đó, trung thu của mẹ đơn giản vậy thôi, nhưng đối với mẹ đó là quãng thời gian trong trẻo mà mỗi độ trung thu về mẹ lại bồi hồi xúc động.

     Bây giờ lúc các con có mặt, trung thu năm nào làm gì thì làm ba mẹ vẫn luôn cố gắng mua cho các con những chiếc bánh thật ngon, chở các con đi chơi và ăn uống. Mẹ muốn gia đình ta luôn luôn quây quần trong những ngày này, thật vui vẻ đầm ấm, đối với mẹ không còn hạnh phúc nào hơn.

     Mẹ vẫn có thói quen gặp những đám trẻ con múa những con lân dù bé tí, ít đầu tư chừng nào mẹ lại thích cho tiền nhiều hơn những đầu lân lớn. Bởi vì nghĩ rằng các em ấy cần sự chia sẻ hơn và hay hướng cho các con yêu thích những chiếc mặt nạ hay đèn ông sao, đèn lồng do những nghệ nhân nước ta làm chứ không thích những sản phẩm do Tàu nhập qua xanh đỏ lòe loẹt, phát nhạc ầm ĩ.

     Có lẽ những kí ức xưa đẹp đẽ vẫn in hằn trong mẹ và mẹ muốn các con luôn tôn trọng những giá trị ấy như những yêu thương mẹ luôn dành cho các con mỗi độ trung thu về. Đêm nay mẹ sẽ cố gắng về sớm để cả nhà mình cùng cắt bánh trung thu vui vẻ nhé và chúng ta hãy cùng cám ơn mùa trung thu đã đem mọi con tim xích lại gần nhau hơn! Phải không nào!

 

GỞI CON TRAI!

     Con à! Mẹ biết con đang hàng ngày bước những bước chân của một chú chim nhỏ muốn vươn đôi cánh của mình bay vào bầu trời xanh bao la. Mẹ vui vì thấy con ngày một lớn nhưng lòng mẹ sao vẫn canh cánh bên lòng một nỗi lo mà có thể tất thảy những bà mẹ trên thế gian này đều có những nỗi niềm như mẹ bây giờ. 

     Con ơi! Mẹ biết bầu trời xanh ngoài kia đẹp lắm, cuộc sống của con với bạn bè là một vườn hoa đầy hương sắc và mong ước được khám phá thế giới của con mẹ rất hiểu - chàng trai bé bỏng của mẹ! Nhưng con biết không, cuộc sống không phải lúc nào cũng toàn màu hồng, bầu trời xanh kia có lúc cũng sẽ có mây đen vần vũ… 

     Con nhớ nhé! Lòng người sẽ có lúc đổi thay, sẽ có lúc mắt con mờ lệ, con thất vọng vì những tình cảm chân thành của mình bị chà đạp không thương tiếc. Người gieo cho con sự tổn thương vô bờ và có thể sẽ làm cho con thấy mất niềm tin vào cuộc sống.

     Nhưng này con trai ơi! Con hãy nhớ trên thế gian này không ai có nghĩa vụ phải đối đãi tốt với con vô điều kiện ngoài cha mẹ, vậy nên nếu có lúc nào bước chân con mỏi mệt hãy tìm về với mẹ nghe con! Và mẹ sẽ mãi mãi là một người bạn tốt bên con những khi con tìm đến. 

     Con trai ơi! Mẹ không nhận mình là một người mẹ hoàn hảo, nhưng mẹ dám khẳng định một điều rằng với mẹ con là tất cả bầu trời hạnh phúc mà mẹ sẵn sàng đánh đổi tất cả và gánh chịu mọi tai ương trên thế gian để cho con được vẹn toàn. Cuộc sống đầy điêu ngoa và lừa dối nhưng nếu con có gặp thì mẹ mong con trai mẹ luôn vững vàng và nhất là không được ôm lòng oán hận. 

     Hãy luôn nhớ rằng khi họ làm cho con đau khổ tổn thương thì con hãy cám ơn vì họ đang giúp con gánh nghiệp chướng ấy cho con rồi đó. 

     Và sau cùng mẹ muốn bắt buộc con bằng sự nghiêm khắc của một người mẹ, đó là trên đường đời chắc chắn con sẽ gặp được những người bạn tốt, có thể họ sẽ giúp con nhiều hoặc ít, bằng cách này hoặc cách khác. Nhưng phàm con đã nhận ơn họ rồi, con không được bao giờ quên ơn. Con không được bao giờ nói rằng con đã trả được ơn cho họ rồi mà nợ ấy con sẽ suốt đời không thể trả hết cho họ được, và hãy sống sao cho xứng đáng để không hổ thẹn với tấm lòng của họ. Như vậy may ra con đã là một chàng trai xứng đáng để mẹ sẵn sàng hy sinh và tự hào về con!

     Con trai yêu quý của mẹ! Bằng tất cả tình thương và những va vấp mẹ đã nếm trải, mẹ muốn chia sẻ cùng con. Mẹ đã gặp những điều khiến mẹ có lúc rơi vào tận cùng nỗi thất vọng, nhưng mẹ cũng đã gặp những người bạn tốt sẵn sàng bên mẹ và mẹ muốn con trai mẹ hiểu rằng ông trời không cho ai tất cả và cũng không lấy của ai tất cả bao giờ.

     Vấp ngã là những điều không thể tránh khỏi và điều quan trọng là ta biết đứng dậy từ chính nơi mà ta chòng chành, làm được những điều này là con trai mẹ đã thành một chàng trai vĩ đại trong mắt mẹ rồi đó, con yêu!

ÔI! CON TRAI!

     Mấy đêm nay tối nào con cũng ho, mẹ nằm một bên nghe con ho từng tràng dài sốt ruột lắm. Ngày nào con cũng không chịu mặc nhiều áo ấm và thuốc mẹ mua con cũng không chịu uống đều. Mẹ đi làm cả ngày không thể cận kề bên con để mà nhắc nhở con từng li từng tí được.

     Chiều nay, mưa và cái lạnh như quất vào thịt da vậy mà đi học về con vẫn lên quán mẹ chơi.

     Nhìn con ướt áo quần mẹ thương mà giận lắm. Cộng thêm những ngày không vui làm mẹ không thể kềm chế nên la con.

     Con vẫn tươi, mẹ thấy lòng mình chùng xuống. Một lát sau, con nhẹ nhàng rụt rè đến bên mẹ: “Mẹ ơi, con có tin ni làm mẹ vui nì!” – “Tin chi?” (mẹ đã nguôi nhưng còn làm mặt giận). "Cô chủ nhiệm lớp con hôm ni chọn con vô danh sách thi học sinh giỏi toàn trường môn Anh văn và Tin học đó mẹ ạ! Mẹ cười đi mẹ nghe!”

     Ôi! Con trai tôi! Mắt mẹ đã nhòa rồi!

HẠNH PHÚC BẤT TẬN!

CON TRAI TRƯỞNG:

     Còn nhớ năm ngoái, con rụt rè và ánh mắt đầy ăn năn hối lỗi khoanh tay cúi đầu xin lỗi mẹ vì kết quả học tập không như mẹ hằng mong đợi. Giọng con run run, lo lắng và lúc đó mẹ tưởng chừng như ai bóp nghẹt trái tim mẹ.

    Nhưng rồi qua phút giây buồn khổ mẹ chợt trấn tĩnh, con còn nhớ không, mẹ không la mắng con một lời vì mẹ biết Bảo Khanh của mẹ đã cố gắng hết sức rồi. Mẹ chỉ khuyên con nên nhìn lại chặng đường mình đã đi, đã có những sai sót gì và việc ngay từ bây giờ là phải hoạch định tương lai của mình như thế nào?

     Thế rồi hàng ngày mẹ dõi theo con và cách đây năm hôm vừa thấy mẹ con reo vui: "Mẹ ơi! Kết quả thi học kì 1 của con môn văn giờ là 6,4 rồi!" Mẹ biết với nhiều bậc bố mẹ con số 6,4 là chưa đúng tầm, nhưng với một học sinh như con so với thời điểm năm ngoái là 3,7 thì đó là cả một quá trình cố gắng của con. Với con của mẹ, mẹ không đòi hỏi ở con quá nhiều, kết quả học tập dù rất quan trọng nhưng điều khiến mẹ vui là con đã trở thành người hùng của mẹ dù kết quả rất khiêm tốn.

     Mới hôm qua con tâm sự với mẹ: “Mẹ ơi! Con muốn xin vào đội tuyển học sinh giỏi Anh văn của trường mà chưa biết có được không mẹ ạ!" Mẹ khuyên con vậy nên hỏi nhờ cô giáo của con và tối nay vừa gặp mẹ con lại reo vang: “Mẹ ơi! Con xin vô được rồi mẹ ạ!” Và còn nói thêm: “Mẹ, con không quan tâm phần thưởng mà chỉ vui vì được học thôi mẹ ạ!"

     Con yêu của mẹ, làm sao có thể diễn tả được niềm vui vỡ oà của mẹ lúc này. Ôi con trai của mẹ, nói sao hết niềm hạnh phúc của mẹ lúc này. Không thành thân thì cũng thành nhân, con trai ngoan của mẹ nhé!

CON TRAI THỨ:

     Con hiền lắm, thường nhút nhát và không lanh lẹ bằng những bạn cùng trang lứa nhưng ở con đức tính mẹ thương nhất là sống tình cảm, thường nhường nhịn anh em trong nhà.

     Bây giờ lớn rồi mà vẫn thường thích lẽo đẽo bên mẹ và thích ôm mẹ ngủ. Phải chăng vì mẹ không có em gái nên trời ban cho mẹ một người con hay thỏ thẻ bên mẹ và thích ăn những món con gái thường hay ăn? Thấy vậy ba bàn với mẹ gởi con qua bên dì để con được cọ xát thực tế, cho con lao động thêm để mong được nhanh nhẹn hơn, nghe vậy con thích lắm và đồng ý ngay.

     Tất nhiên con sẽ được dì cho một số tiền phù hợp với sức lao động của con để khuyến khích. Và tất nhiên số tiền nhỏ ấy mẹ cũng sẽ cho con nhưng mẹ sẽ hướng con nên dùng tiền đó để sử dụng vào những việc gì.

     Việc học của con mẹ không quá khó khăn hoặc chật vật để lo cho con nhưng mẹ muốn con đi một ngày đàng học một sàng khôn. Ăn một miếng cơm của thiên hạ mới biết giá trị của nó lớn lao bao nhiêu, và từ đó mới biết công sức của ba mẹ đã bỏ ra như thế nào để nuôi được con đến ngày hôm nay.

     Tối nay mẹ hỏi con làm việc có vất vả không, con nói cũng hơi mệt thôi, mẹ lại hỏi: “Con có hay bị khiển trách gì không?” (vì khi gởi con qua mẹ có dặn dì nếu con làm không tốt dì cứ la không ngại vì điều đó sẽ tốt cho con hơn), con nói: “Dạ có chơ, bị la hoài!” Hỏi: “Thường vì lý do chi?” Con nói: “Vì con chưa quen, với lại con còn chậm, và ít khôn lanh hơn người khác”. Mẹ hỏi: “Rứa thì con có muốn nghỉ làm không, nếu muốn nghỉ thì thôi mẹ không ép!” Con nói: “Dạ không!” Mẹ bảo: "Tại sao, hay muốn làm cho có tiền à?" Con vừa ăn cơm vừa trả lời mẹ, giọng trầm hiền: "Không phải, nếu cần tiền thì con chỉ cần mỗi buổi sáng mẹ cho con tiền ăn sáng là đủ rồi, con còn cần chi nữa, con muốn làm để bớt ngu hơn thôi!". Ôi, con trai của mẹ!

     Mẹ thuật lại đúng chữ ngu con vừa mới dùng và để nguyên văn câu con nói hồi nãy. Con ngồi đó ăn cơm, 10 giờ 20 phút, áo trắng quần xanh vẫn chưa thay ra từ lúc đi học rồi qua chỗ làm. Con trai ngoan của mẹ ơi, mắt mẹ thấy nhoè, cay cay nơi sống mũi mất rồi, vì con cả thôi ! 

     Đêm thao thức với bao cảm xúc mà hai con đã đem lại. Mẹ cám ơn món quà tối nay hai con dành cho mẹ. Và ngay lúc này đây, khi mẹ viết những dòng cảm xúc này là lúc con đang nằm gối đầu lên tay mẹ, hơi thở nhẹ nhàng, hàng mi dài và sóng mũi cao thẳng tắp. Ngoài kia những cơn mưa đã không còn nữa và hứa hẹn sẽ có một ngày nắng xuân thật đẹp. 

     Yêu hai con của mẹ vô cùng !

 

HAI MẸ CON

      Trưa - xóm chợ sau một buổi sáng ồn ào lao xao kẻ mua người bán dần trở về sự im lặng, đó đây chỉ còn vài người khách thỉnh thoảng đi chợ muộn và nhiều người đã đậy hàng hoá, tranh thủ chợp mắt để lấy sức chiều sẽ lại mở hàng mưu sinh. 

     " Một, hai, ba... một, hai, ba..." 

     Thì ra đó là tiếng của hai mẹ con người bán rau hành bên lề chợ mà trưa nay làm tôi đặc biệt chú ý.

      Chị ấy vốn nổi tiếng là chua ngoa và đanh đá nhất nhì xóm chợ này, thằng con trai trạc chừng bảy tuổi nhưng bị bệnh câm bẩm sinh từ nhỏ nên không được đến trường mà chỉ long nhong theo mẹ suốt ngày. Nó vẫn thường chơi một mình hoặc thỉnh thoảng nó vẫn sang nhà tôi và những nhà lân cận để chơi. Thực ra thì tôi cũng bận rộn nên cũng ít khi chú ý và giao tiếp với nó, chỉ thỉnh thoảng có cái bánh hay mua cây kem tôi thường ngoắc nó lại để cho mà thôi.

     Trưa nay, nó ngồi bên mẹ nó, mẹ nó đọc: "Một" thì nó cũng "một" mặc dù tiếng đọc của nó không tròn, không nghe rõ nhưng mẹ nó vẫn kiên nhẫn nhắc đi nhắc lại để nó đọc theo. Nó cũng chịu khó và chăm chú tập đếm, thỉnh thoảng nó ngại ngùng khi có ai đó tò mò nhìn nó nhưng mẹ nó chỉ nhắc nhỏ: "Kệ họ, nghe mẹ đọc rồi đọc theo nì"! 

     Nó lại tiếp tục "một, hai, ba". Tiếng hai mẹ con đều đều, rì rầm, thỉnh thoảng nó o oe tiếng gì không rõ lắm nhưng tôi chỉ thấy mẹ nó qua hàng thép gai nhà tôi dịu dàng chuyện trò cùng nó như một đứa con bình thường.

     Mẹ nó thân hình gầy gò, quanh năm chỉ thấy mặc những bộ đồ lam lũ ngồi bán từng mớ rau mà tôi ước chừng vốn liếng khoảng chừng vài ba trăm ngàn đổ lại. 

     Chị ta ngồi bán, thỉnh thoảng lại lục tìm trong cái bì ni lông đếm xem đã bán được bao nhiêu tiền rồi, có người đến mua chị mừng rỡ đon đã nhưng cũng có khi chị nguýt lườm họ tưởng chừng đứt mắt khi họ trả rẻ xong không mua mà đi.

     Trưa nay, chị dịu dàng ngồi bên con, viết từng con số vào tờ giấy nhàu nhĩ rồi chỉ cho con đọc theo. 

     Lòng tôi bỗng chùng xuống, thật ra không có người mẹ nào trên đời là người xấu cả, ít nhất là đối với những đứa con. Con dù có tật nguyền, có khiếm khuyết vẫn mãi mãi là thiên thần bé bỏng đáng yêu của mẹ, nên mẹ sẵn sàng vô điều kiện để yêu con.

… NỬA TRÁI SIM

 

Đói lòng ăn nửa trái sim\

Uống lưng bát nước đi tìm người thương!

     Vấn vương câu ca dao tự thuở mẹ ru vẫn vẹn nguyên cảm xúc, ta tìm lên đồi một chiều mùa hạ khi nắng vẫn hanh vàng.

     Thì đây, lẫn trong muôn vàn cây cỏ bên triền đồi những khóm sim vẫn đằm thắm dịu dàng trong sắc tím. Sim không mọc đơn thân mà mỗi cây thường thành từng khóm, từng cánh mỏng manh, dịu dàng e ấp tươi mươi. 

     Lắng lòng, tôi hình dung: Chiều đồi quê, xa xa có đôi nhân tình ngồi bên tán sim thầm thì tâm sự, chợt chàng trai cài lên tóc người yêu nhành hoa sim tím, họ nhìn nhau hạnh phúc thầm ước hẹn lứa đôi: sim đã thành chứng nhân. 

     Chú bé mục đồng véo von thổi sáo, đàn trâu vẫn nhởn nhơ gặm cỏ bên cạnh những khóm sim, tuổi thơ bên cánh diều chao nghiêng triền đồi gió lộng: sim giữ giùm ta một vùng kí ức để ta dù có bôn ba chân trời góc bể vẫn nhớ về hương vị ngọt chát trái sim quê nhà đến quay quắt mà tiếc, mà thương.

     Cùng anh lên đồi sim, em ăn nửa trái sim anh trao và dành anh một nửa, để cho dù chát cay hay ngọt ngào em vẫn muốn cùng anh giữ mãi những êm đềm se kết.

      Lòng bất chợt chạnh lòng nhớ người em gái trong "Màu tím hoa sim" của Hữu Loan. Nhưng đồi sim đâu chỉ là của những mất mát chia xa phải không anh, mà sim vẫn luôn mang trong dịu dàng sắc tím của mình một thông điệp để tiếp nối những suối nguồn thương yêu bất tận. 

     Chiều buông, xa xa khói lam chiều nhà ai đã thơm mùi gạo mới thúc giục ta trở về bên bữa cơm gia đình cũng là lúc nón em đã kịp nặng trĩu những quả sim mọng chín ngọt ngon. 

     Ta ngoảnh lại đồi sim: vẫn tím tròn đầy một tình yêu thủy chung son sắc, hẹn thề!

 SAO LẠI “NỬA TRÁI SIM”

      Hôm trước viết bài về đồi sim có nhắc đến câu ca dao: "Đói lòng ăn nửa trái sim, uống lưng bát nước đi tìm người thương", thì có người bạn hỏi rằng: "Theo em vì răng chỉ ăn nửa trái sim mà không ăn hết cả trái? Sao không uống hết một bát nước mà chỉ lưng bát thôi"; và khái niệm "tìm người thương" ở đây được hiểu như thế nào?... Ừ nhỉ, một lời thắc mắc khá thú vị!


     Vì sao? Xưa nay chủ đề về tình yêu luôn là một đề tài, một nguồn cảm hứng bất tận trong thi ca, trong tâm thức mỗi con người đã, đang và thậm chí là chưa yêu. Cho nên chẳng phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Xuân Diệu đã thốt lên: "Yêu là chết ở trong lòng một ít, vì mấy khi yêu mà chắc được người yêu", hay Thế Lữ: "Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, ngàn năm hồ dễ mấy ai quên". Đến những trăn trở trong mười bài Không tên của Vũ Thành An với những dằn xé về mối lương duyên trắc trở: "Mưa bên chồng có làm em khóc có làm em nhớ những khi mình mặn nồng!"

     Vâng, tình yêu nó lạ lắm, nó làm tim ta bồi hồi loạn nhịp có khi chỉ là một ánh mắt giao nhau tình cờ, để rồi dáng hình ấy theo ta có khi là đến suốt một đời làm lòng ta nặng trĩu, hay có khi tình yêu nhẹ nhàng thấm sâu từ khi nào để rồi một ngày ta chợt nhận ra ta đã yêu người tự bao giờ mà ta chẳng rõ, ta chẳng thể nào định nghĩa được!

     Cho nên Xuân Diệu mới băn khoăn:

"Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu"

     Vậy đấy, thế mới biết sức mạnh của tình yêu lớn lao như thế nào, tình yêu có thể xoá tan mọi phiền não, mọi trở ngại, mọi khó khăn. Nó làm cho ta thêm ý chí và nghị lực, nên theo nghĩa đen của câu ca dao này đi tìm người thương mà chỉ cần ăn nửa trái sim, uống chỉ lưng bát nước thôi vậy mà ta cũng đủ sức để "đi tìm người thương".

     Vì sao; bởi vì nói như câu ngạn ngữ "Tình yêu nó như con quái thú, càng bỏ đói nó càng có sức sống mãnh liệt hơn". Như trong tình yêu cũng vậy, càng trong gian nan thử thách, tình yêu lại càng như một ánh dương quang rạng ngời, ta chỉ biết muốn tìm đến bên, mặc cho phong ba bão tố, biết là trắc trở đấy, biết là thử thách đấy nhưng có hề chi! Miễn được gần nhau, được nghe hơi thở của nhau đã là niềm hạnh phúc bất tận rồi.

     "Người thương"! Tại sao không là "người yêu" hay "người tình"? Chữ "thương" ở đây nó gợi cho ta một cái gì thuộc về sự dung dị, chân chất, đằm thắm trong tình yêu của hương bưởi hương cau, của hương đồng gió nội, của mênh mông triền đồi... Nên: "yêu em tam tứ núi cũng trè , ngũ lục sông anh cũng lội, thập bát đèo anh cũng qua". Hay: "Chàng ơi cho thiếp theo cùng, đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam".

     Khát khao tìm kiếm tình yêu lứa đôi, tìm một nửa của mình, nên em đi tìm anh, em đi tìm phần hạnh phúc mà em biết chỉ có anh mới có thể đem lại, không là ai khác mà chỉ là anh - người em muốn tìm muốn kiếm cho hạnh phúc của đời mình.

     Dù hành trình tìm kiếm của em gặp nhiều cách trở khó khăn, ví dù trái sim rất nhỏ, nhưng như tình yêu của em vậy, em vẫn muốn để dành nửa kia cho anh. Để hai ta cùng cắn chung một quả ân tình, dù đắng chát hay ngọt ngào em vẫn muốn được cùng anh chia sẻ hương vị tình yêu ấy - đằm thắm mà vẫn nồng nàn như câu ca dao xưa!

 VIẾT CHO NGƯỜI Ở LẠI

VÀ CHO NGƯỜI BƯỚC TIÊP!

      Vậy là bao nhiêu nổ lực cố gắng của chúng tôi - những người tham gia và dừng chân ngang vòng sơ khảo của hội thi: "Phụ nữ Huế thanh lịch" đã khép lại khi có thông báo của ban tổ chức chúng tôi đã không thể đến với vòng chung kết.

     Còn nhớ những ngày chuẩn bị cho hội thi chúng tôi đã vất vả biết bao và cũng háo hức biết bao. Các bạn biết rồi đấy, chúng tôi ngoài việc chăm sóc gia đình còn phải lo việc kinh tế ngoài xã hội nên chị em chúng tôi hầu như ai cũng chật vật về thời gian. Thế nhưng chúng tôi vẫn luôn cố gắng dành thời gian động viên và chia sẻ cho nhau những kinh nghiệm chọn áo dài, cách ứng xử, đi đứng nói năng…

      Tóm lại, mặc dù cùng đứng chung trong một hội thi nhưng với chúng tôi không có một sự ganh đua thua thắng mà ngược lại chăm chút chỉ bảo cho nhau tận tình. Nhưng người tận tình nhất trong hội thi lần này là chị chủ tịch hội phụ nữ phường, chị nhiệt tình chăm lo cho chúng tôi từ tinh thần đến việc theo chúng tôi chọn từng chiếc áo dài mà bây giờ lúc viết bài này tôi vẫn cảm thấy còn một cảm giác ấm lòng.

     Riêng chúng tôi, mặc dù mỗi người ban đầu còn bỡ ngỡ nhưng chúng tôi cũng gắn kết cùng nhau thật nhanh. Tôi còn nhớ lại những giây phút cùng tập đi trên sàn diễn, miệng phải luôn cười tươi, chân phải bước như thế nào để nhìn thật duyên dáng trong tà áo dài, phải điệu lúc xoay người tạo dáng và bí quyết để giữ sự tự tin lúc trả lời phần ứng xử ra sao. Tất cả với chúng tôi còn lạ lẫm vì đã bao giờ chúng tôi tham gia lên sàn catwalk đâu nào!

     Rồi thì buổi sáng ấy cũng đã đến, trời Huế hôm đó bỗng dưng đổ cơn mưa làm dịu mát những ngày nóng nực còn chúng tôi ai nấy hôm ấy cũng đều cố gắng sao cho mình thật đẹp, thật duyên. Bình thường, thấy ai cũng tự tin nhưng hôm ấy ai cũng nói rằng run quá.

     Phần trình diễn áo dài thì ai cũng duyên dáng nhưng phần trả lời câu hỏi ứng xử thì mới là lúc khán phòng nóng nhất. Có nhiều chị bình tĩnh và trả lời trôi chảy nhưng cũng có chị run quá quên hết trơn, thậm chí có chị không thể nói được một câu gì, có chị đi xuống khỏi sân khấu và đã khóc thút thít, có chị thì chia sẻ rằng lúc lên đó (sân khấu) bỗng nhiên hồn vía bay đâu mất tiêu nên nói mà chẳng biết mình nói gì.

     Vậy đó, chị em chúng tôi đã cố gắng nỗ lực rất nhiều nhưng với số lượng hơn 70 thí sinh mà chỉ chọn 20 thi sinh vào vòng chung kết thì chúng tôi đã tiên liệu trước rằng chúng tôi có lọt vào chung kết hay không cũng một phần nào mang yếu tố may mắn mà thôi. Bởi trong mắt chúng tôi ai cũng như những đoá hoa muôn màu rực rỡ đang khoe sắc cả nhưng chúng tôi vẫn quyết định tham gia cuộc thi như là một sự trải nghiệm, giao lưu và học hỏi nên chúng tôi không mấy đặt nặng vấn đề là có đoạt giải gì hay không.

     Bởi vậy nên sau cuộc thi chị em chúng tôi có nhiều dịp gặp gỡ, cùng ôn lại những giây phút kỉ niệm đáng nhớ và nhất là chúng tôi bỗng thấy hợp và yêu mến nhau hơn. Nên có lẽ theo suy nghĩ của riêng tôi thì qua cuộc thi này tôi đã được rất nhiều mà cái được lớn nhất là có thêm những người bạn mới thật dễ thương.

     Khép lại những giờ phút vui vẻ chúng tôi trở về với cuộc sống thường nhật của mình, và chúng tôi tự nhủ chúng tôi không phải là những người thua cuộc mà chúng tôi là những người chiến thắng: chiến thắng sự mặc cảm và tự ti mà chị em phụ nữ chúng mình cần phải luôn phát huy.

     Dù sao cũng xin lỗi vì đã phụ lòng kì vọng của mọi người và còn đó với bao tiếc nuối sau hội thi nhưng xin hãy hiểu cho chúng tôi vì thật sự chúng tôi đã cố gắng hết sức của mình.   

       Qua đây cũng xin gởi lời chúc mừng đến quý chị em đã bước vào vòng chung kết và xin gởi lời chúc quý chị em hoàn thành tốt phần thi của mình nhé.

     Thí sinh Nguyễn Thị Thùy Trang mang số báo danh 11 xin gởi lời chào thân ái đến với mọi người!

     Chúc hội thi thành công mỹ mãn!

 

THIÊNG LIÊNG MÙA PHẬT ĐẢN

 

     Một mùa lễ Phật Đản nữa lại về!

     Khắp nơi trên quê tôi đang rộn ràng trong bầu không khí náo nức chờ đón ngày kỷ niệm Đức Thế Tôn ra đời.  

     Năm nay lại càng dường như long trọng trong tinh thần phấn khởi hơn vì sẽ diễn ra Đại lễ Phật đản Vesak Liên Hiệp Quốc có trên một trăm nước trên khắp thế giới về tham dự. 

     Riêng Huế tôi - xứ Thần kinh nổi tiếng bởi những ngôi chùa cổ và những người dân tôn sùng lấy đạo Phật làm lẽ sống, những ngày này những người con Phật như tôi lòng hoan hỷ lắm thay!    

     Những ngôi chùa bấy lâu trầm mặc trong u tịch rêu phong nay bỗng như cựa mình thay áo mới. Những chiếc lồng đèn lung linh huyền diệu, những ngọn cờ Phật giáo được trang hoàng tung bay thật lộng lẫy. Từ những ngôi cổ tự nức tiếng như Bảo Quốc, Từ Hiếu, Từ Đàm, Tường Vân, Thuyền Tôn... đến những ngôi chùa khiêm tốn bình dị chốn quê đều chung một niềm lạc quan, phấn khởi. Quý đạo tràng Phật tử như đang xích lại gần nhau hơn trong sự hoà ái gắn kết cùng hướng dâng lên Đấng Cha Lành những đoá sen lòng tinh khiết nhất.  

     Dòng Hương những ngày này đẹp hơn bao giờ hết khi bảy đoá sen tượng trưng cho bảy bước đi của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được thắp sáng trong bầu trời đêm. 

     Khắp mọi ngã đường, từ thị thành đến thôn trang nhà nhà đều vui đón ngày của Phật, ai cũng muốn mua những chiếc lồng đèn về trang trí nhà cửa và tôi cũng không ngoại lệ. Thật ra, truyền thống này gia đình tôi đã có tự ngàn xưa. Từ hồi ông nội tôi còn khoẻ mạnh, mỗi mùa Đản Sanh chúng tôi vẫn thường theo ông làm những chiếc đèn lồng ngôi sao, bánh ú. Nội tôi thường lấy tre trong vườn nhà vót làm khung và lấy những tờ giấy kiếng xanh đỏ vàng làm nên những chiếc lồng đèn trông thật bắt mắt. Nội tôi vẫn hay nói và sau này ba tôi cũng vẫn hay nói với chúng tôi như vậy: "Mua cũng được nhưng muốn tự làm để có được không khí ngày đản sanh! ".

     Hồi đó, chúng tôi đã hiểu gì đâu. chỉ biết rằng thật thích thú khi được cầm những chiếc đèn lồng có gắn một cây sáp nhỏ đi khắp các ngôi chùa quanh vùng và đích đến đầu tiên bao giờ cũng là ngôi chùa Từ Đàm quen thuộc.

     Mà Huế tôi kì lạ lắm, những ngày ấy thường hay có những cơn mưa bất chợt nên đôi khi những chiếc đèn đang rực rỡ toả sáng lung linh là vậy, bỗng chốc một cơn mưa ngang qua làm hư hỏng hết trơn, mỗi lần thấy một chiếc đèn bị rách tơi tả bao giờ cảm giác cũng thương vô cùng. May thay bây giờ người ta đã dùng những tấm vải thay cho những loại giấy kiếng hoặc giấy thủ công nên giữ được độ bền hơn cho chiếc lồng đèn được kiêu hãnh toả sáng suốt cả mùa đản sanh.  

     Lớn lên xíu nữa khi tham gia Gia Đình Phật Tử, thời gian ấy vui lắm, những lúc rảnh rỗi chúng tôi thường vân tập về chùa Tường Vân để cùng làm lồng đèn và đến sáng 14 tháng Tư âm lịch ai nấy đều náo nức chung một niềm vui sướng hân hoan, trong màu áo lam hiền dịu chúng tôi thành kính dâng lên Đấng Từ Bi và Quý Tăng Ni những lẵng hoa thơm ngát nhất, tinh khiết nhất. Đó là những tháng ngày tươi đẹp nhất của cuộc đời mà tôi không bao giờ quên được!

     Lòng thành kính hướng về Đức Phật tim tôi vang mãi câu hát: "Ngài là đấng cha lành cứu độ muôn loài, Đức Từ Bi ngài gieo ánh sáng đạo vàng, đời dương thế si mê tham giận lầm lỗi, con cúi xin ơn ngài cứu độ chúng sanh!"

 

THỰC TRẠNG HIỆN NAY CỦA "LỘC MINH ĐÌNH",

NGÔI NHÀ CỦA DANH NHÂN ƯNG BÌNH THÚC GIẠ.


     "Chiều chiều trước bến Văn Lâu, ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm…"

     Người dân xứ Huế không ai là không biết câu hò mái nhì nổi tiếng này của cố thi sĩ Ưng Bình Thúc Giạ Thị - một bậc nho sĩ tài danh và là một hoàng thân của triều đình nhà Nguyễn. Tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Bình hiệu Thúc Giạ Thị sinh ngày 9.3.1877 và mất ngày 4.4.1961.

     Ông nổi tiếng còn bởi tuy thuộc dòng dõi hoàng phái nhưng ông sống rất khiêm cung bình dị, thanh đạm và tao nhã vô cùng. Tài hoa của ông với hàng trăm tác phẩm thơ, tuồng có lẽ chúng ta không cần phải bàn cãi nhiều thêm nhưng có thể ít ai biết rằng Lộc Minh Đình - ngôi nhà trong Châu Hương Viên lúc sinh thời cố thi sĩ từng sống ở Vĩ Dạ suốt một cuộc đời thanh bạch bây giờ như thế nào?

     Vâng, chúng tôi là những kẻ hậu sanh hôm nay cùng nhau tìm về thăm lại nơi này để biết, để hiểu và… Hòa cùng dòng xe cộ đông đúc chúng tôi xuôi theo đường Nguyễn Sinh Cung dừng lại trước một ngôi nhà mà hồi mới đến đây lần đầu tiên tôi cứ ngỡ mình nhìn nhầm nếu như không có người dẫn đường có lẽ tôi sẽ không tin vào mắt mình.

     Nhà của một thi nhân nổi danh văn đàn một thời đây ư? Ngôi nhà một thời hội tụ nhiều thi nhân mặc khách trà thơ đối ẩm giờ như thế này sao? Nhưng tôi biết rằng mình không thể nhầm lẫn vì dù thời gian đã làm ngôi nhà xuống cấp hoang tàn rất nhiều nhưng vẫn còn đó nếp nhà xưa một thời lừng lẫy.

     Vẫn còn những chiếc cột to tròn dù mối mọt đã tàn phá đi nhiều nhưng vẫn toát lên một vẻ quý phái cao sang, vẫn còn những nét chạm khắc tinh vi trang nhã trên những vật liệu kiến trúc bằng gỗ quý.

     Tôi vẫn còn nhớ mãi cái cảm giác ấy, đau đớn vô cùng, lúc vô tình giẫm lên những viên ngói cổ nằm một đống ở góc nhà – phế liệu từ sự xuống cấp trầm trọng của ngôi nhà đã từ lâu rồi vắng chủ.

     Hướng tới án thờ là một chiếc bàn cao nhưng hương khói lạnh tanh tự lúc nào. Đó là lần trước, còn lần này khi chúng tôi về thăm lại đã có được một bình hoa cúc vàng cắm trên chiếc độc bình nhỏ nhắn, chỉ thế thôi mà lòng tôi bỗng dưng thấy ấm áp khôn cùng.

     Thành kính thay hương hoa lễ cụ tôi thầm cầu xin, (mà hình như mỗi lần đến đây tôi vẫn thầm khấn xin như thế) nếu có một phép màu, để nơi này được nhiều người quan tâm đến, vì những ngôi nhà cổ xưa như Lộc Minh Đình ở Châu Hương Viên là cái hồn của xứ Thần Kinh, nếu không bảo tồn thì có lẽ một ngày không xa chúng ta sẽ mất rất nhiều, thiếu thi vị rất nhiều khi ngân nga câu mái nhì bất hủ ấy… " Ai thương ai cảm ai nhớ ai mong...".

     Vâng, Trang tôi chỉ là một người bình thường, quá đỗi bình thường nhưng ước mơ ấy không bao giờ ngưng cháy bỏng trong tôi, chỉ mong sao có người thương, người cảm...

     Xin hẹn ngày trở lại Lộc Minh Đình!

 

LỜI KHẤN NGUYỆN ĐẦU NĂM


     Trưa mùa xuân, vẫn còn đọng những cảm xúc dạt dào của đêm rằm Nguyên Tiêu, chúng tôi cùng rủ nhau về thăm lại Lộc Minh Đình ở Châu Hương Viên - mái nhà lúc sinh thời cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị đã từng sống . 

     Những ai đã từng nghe câu mái nhì bất hủ: "Chiều chiều trước bến Văn Lâu, ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm..." hoặc Tứ đại cảnh "Đêm thất tịch", Nam bình "Đến đây đầu lạ sau quen "... không ai là không biết đến tên tuổi vang bóng của vị danh nhân nổi tiếng trong văn đàn với hàng ngàn tác phẩm thơ tuồng tài hoa thuở ấy. Ông thuộc dòng dõi hoàng thân quốc thích nhưng với lối sống thanh đạm tao nhã và tài nghệ của ông đã để lại trong lòng những người mộ điệu sự ngưỡng mộ và kính trọng khôn cùng.

     Thế hệ chúng tôi, chỉ biết đến ông qua những giai thoại, những tư liệu quý báu và dấu ấn ghi đậm trong kí ức chúng tôi đó là hai nấm mồ của ông và phu nhân.

     Trên một ngọn đồi cao, hai nấm mồ ấy nằm song song cạnh nhau và trên tấm bia của hai người đều tạc tấm hình chân dung của mỗi người. Đặc biệt có hai câu thơ khắc trên bia của ông mà cho đến bây giờ mặc dù lũ trẻ thơ chúng tôi giờ đã lớn khôn , thậm chí có người còn đi xa rất xa, nhưng mỗi lần trong những câu chuyện về những hồi ức xóm Giếng Chùa ngày ấy ai cũng thuộc nằm lòng: "Rượu có mùi hương nên uống mãi. Thi là thuốc bổ cứ ngâm chơi".

     Hình ông đó, mặc chiếc áo dài the màu đen, chòm râu bạc trắng như cước và nét cười hào sảng, tay nâng ly rượu đã để lại ấn tượng mãi mãi trong lòng chúng tôi - những đứa trẻ một thời với kí ức đẹp đẽ của xóm Giếng Chùa gắn liền với ngọn đồi có những trò chơi con nít vô tư hồn nhiên, có hai nấm mồ của ông bà! 

     Lớn lên thêm, khi chúng tôi được biết đến những tác phẩm lớn của ông thì đồng thời chúng tôi cũng đã chứng kiến một điều xót xa không tưởng: Ngôi nhà ấy – Lộc Minh Đình trong Châu Hương Viên một thời tao nhã thi ca với bao thi nhân mặc khách giờ hoang phế theo thời gian trong nỗi cô đơn và tuyệt vọng.   

     Cảnh xưa giờ hoang tàn, nhà xưa giờ vắng chủ mặc cho bụi thời gian phủ lên thành một khung cảnh tiêu điều xác xơ. Nhưng không, dường như vẫn còn đó nét nhà xưa một thời lừng lẫy, mặc dù thời gian đã tàn phá rất nhiều nhưng không vì thế mà mỗi lần đến đây thắp nhang cho cụ tôi như nghe trong thinh không hoang phế một tiếng cảm than, một tiếng thở dài não nuột.

     Tôi còn biết làm gì ngoài lời khấn hứa cùng hương hồn cụ một lời tự sâu thẳm tận đáy lòng mình: "Mong cho Lộc Minh Đình của Châu Hương Viên sống dậy, dù chỉ là phục dựng được phần nào cái hồn trên nền cũ, và tiếng hát, ca Huế, lời thơ của thi nhân mặc khách khắp nơi cùng hội tụ về đây, để nơi suối tuyền hương hồn ông được sưởi ấm và không còn đơn lạnh nữa.”

THĂM LẠI LỘC MINH ĐÌNH

     Lời khấn nguyện đầu xuân của chúng tôi dường như được linh ứng. Hôm nay, ngày 4. 4. 2019 nhân kỉ niệm 58 năm ngày mất của danh nhân Ưng Bình Thúc Giạ Thị, chúng tôi đã cùng nhau về thăm lại Lộc Minh Đình ở Châu Hương Viên và làm lễ dâng hương tưởng nhớ tác giả của câu hò mái nhì bất hủ: "Chiều chiều trước bến Văn Lâu ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm..."

     Cùng tham dự buổi lễ dâng hương này có sự tham gia của giới văn nghệ sĩ, giới nghiên cứu văn hoá Huế, các nhà văn, nhà thơ như Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Đắc Xuân, Phan Thanh Hải, Đông Hà, Trần Thanh... cùng các tổ chức đoàn thể và đặc biệt với sự góp mặt của các nghệ nhân, nghệ si Ca Huế của Câu lạc Bộ Ca Huế thuộc Trung tâm Văn hóa Huế đã làm cho không khí của buổi lễ được long trọng và đầy ý nghĩa hơn.

     Sau lời giới thiệu xúc động và tâm huyết của nhà thơ Võ Quê, tri âm chúng tôi cùng ngồi lại và tiếng đàn, hát Ca Huế được cất lên trong hương trầm ngào ngạt, sự thành kính pha lẫn niềm xúc động dâng trào trong tâm tưởng những ai đang có mặt nơi này, chứng kiến cảnh hoang tàn và cô quạnh của Lộc Minh Đình trong Châu Hương Viên.  

     Có lẽ niềm xúc động ấy dâng cao trong lòng nên lúc nghệ sĩ Ý Nhi ca: "Nỗi lạnh lùng đêm thâu, ai phụ tình ly phụ, giữa dòng thu, chạnh lòng Giang Châu luỵ dầm bâu tiếng tơ gây sầu…” đã không nén được niềm cảm xúc nên không thể cầm những giọt nước mắt. Không gian như chùng hẳn xuống và tất cả những ai có mặt cũng đều rưng rưng lệ xót thương.  

     Hôm nay, dường như ngôi nhà Lộc Minh Đình trong Châu Hương Viên được sống lại, được rộn ràng trong tiếng đàn bầu, đàn nguyệt, đàn tranh… được bay bổng theo những bài Ca Huế do ông sáng tác. Và trên bàn thờ nghi ngút khói hương trầm mặc, di ảnh ông dường như mỉm cười với chúng tôi, và dường như tôi đang thấy ông từ cõi xa xôi đã trở về cùng chúng tôi đắm chìm trong cung đàn, lời ca…

     Thắp nén hương lòng dâng lên ông, lòng tôi thấy hân hoan, khác hẳn với cảm xúc trong tôi về đây của những lần trước chứng kiến Lộc Minh Đình u tịch, sầu bi hoang tàn. Và trong tôi lại nhen nhóm lên một niềm tin, một niềm hy vọng Lộc Minh Đình sẽ được cựa mình thay áo mới, sẽ được phục dựng cái hồn trên nền cũ để những tri âm chúng tôi được cùng hội tụ nơi này, cùng làm sống dậy một di tích lịch sử bấy lâu nay đã ngủ quên trong quá khứ .

     "Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao", tin rằng mỗi viên ngói của mỗi tấm lòng chúng ta cùng góp lại sẽ phục dựng Lộc Minh Đình để những tháng ngày mưa gió đông về Châu Hương Viên không còn đơn lạnh nữa! 

     Tạm biệt ông, tạm biệt Lộc Minh Đình với niềm hân hoan và niềm tin như lời khấn nguyện đầu năm!

CHUYỆN MỘT CHÚ CHIM NON

     Chíp! Chíp... Một chú chim non với những bước chân yếu ớt, những cọng lông đã xác xơ, đôi mắt thất thần đang ngơ ngác lò dò quanh những hòn đá trong vườn nhà làm hai cô trò chúng tôi đều bất giác hướng về phía ấy.

     Chú nhảy những bước chân yếu ớt và không còn đủ sức để bay nữa rồi, sau một thoáng ngần ngừ hai cô trò đều đứng dậy và tiến đến nơi chú chim nhỏ tội nghiệp đang ngơ ngác. 

     Ồ! Thật dễ dàng khi tôi đưa tay ra để bắt vì nó không còn đủ sức để bay nữa chứ không thì đời nào chú chịu nằm thiêm thiếp trên tay tôi như bây giờ. Chúng tôi đoán có lẽ nó lạc mất bố mẹ rồi, hai cô trò vừa nói xong thì bỗng dưng trên mái nhà có đôi chim trống mái đang bay liệng, nhảy từ cây nọ sang cây kia, mắt dáo dác tìm kiếm và miệng không ngừng kêu vang gọi con thống thiết.

     Thấy vậy chúng tôi liền đem chim non ra khoảng sân rộng trước nhà với ý định để cho chim bố mẹ dễ tìm ra con. Một cảnh tượng cảm động diễn ra trước mắt chúng tôi: Hai chú chim bố mẹ hốt hoảng tìm con sà liệng từ cành này sang cành khác, miệng kêu gọi tìm con, còn chim non cũng đang ngơ ngác hốt hoảng miệng kêu tìm bố mẹ, chân cứ lò dò nhảy từng bước một qua những hòn đá, vạt cỏ trong sân vườn.  

     Có một cái gì đó như nghẹn ngào trong tôi. Loài vật còn sâu nặng nghĩa tình, còn con người chúng ta lại vô tình cho rằng phóng sanh là làm việc thiện nên vẫn thường hay mua cá mua chim về để thả, chúng ta không nghĩ rằng làm vậy là chúng ta vô tình gây nên sự chia lìa, con mất cha mẹ, vợ mất chồng, bạn bè ly tan. Đáng lẽ đàn chim kia được sống trong môi trườn thiên nhiên quen thuộc thì chúng ta vì muốn thiện lành lại gián tiếp khiến có cầu thì phải có cung nên vô tình chúng ta dường như tạo điều kiện cho những người mua bán đánh bắt sinh vật để phóng sanh.

     Tôi đã từng chứng kiến cảnh trên thuyền chúng tôi thả cá nhưng có ngờ đâu dân vạn chài họ đã bí mật thả lưới vây bủa xung quanh. Vậy là vòng tuần hoàn thả - bắt ấy cứ mãi tiếp diễn. Vậy có nên chăng duy trì thói quen và quan niệm phóng sanh?

     Tôi viết bài này chỉ vì bỗng dưng động lòng từ câu chuyện đã tận mắt chứng kiến hôm qua, cảm xúc nhỏ nhoi thôi! Đồng thời ghi lại kỉ niệm một sáng cùng cô giáo cũ Phạm Thị Thuận, còn nhớ tấm lòng từ ái của cô khi cô dặn nhỏ chú cún con sợ chú ấy bắt nạt chim non: "Con đừng doạ em nghe không, để em tìm ba mẹ nghe không?"

     Nguyện mong Phật pháp trường tồn

     Chúng sanh người người tịnh tâm, an lạc…

 

 ÁO DÀI XUỐNG PHỐ

     Dịp 8. 3. 2019 vừa qua, dường như thành phố Huế rộn ràng và rực rỡ hơn hẳn khi ra đường các chị em diện áo dài với muôn vàn màu sắc, kiểu dáng đa dạng xuống phố. Có một câu mình thường nghe các chị rỉ tai nhau: "Được miễn phí vé tham quan các điểm di tích trong thành phố trong dịp 8.3 dành cho các chị em mặc áo dài truyền thống”.  

     Có lẽ chưa khi nào các chị em thích tham quan di tích như những ngày ấy, phải chăng quyết định của Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân Tinh Thừa Thiên Huế đã khiến cho chị em thay vì chọn nhiều điểm để vui chơi trong những ngày ấy nay lại muốn chọn đến những nơi này.  

     Nhưng dẫu vì lý do nào đi chăng nữa, theo riêng mình việc các chị ấy thích và mặc chiếc áo dài truyền thống thì đã là một điều dễ thương và đáng được biểu dương rồi.

     Việt Nam nói chung và xứ Huế nói riêng nét dịu dàng của người phụ nữ bao giờ cũng được tôn vinh và hình ảnh đó càng được thể hiện rất rõ nét trong tà áo dài Việt. Đặc biệt chiếc áo dài Việt Nam cũng như hoa sen luôn được xem là hình ảnh của con người Việt Nam, nó tôn vinh vóc dáng trong từng đường nét trên cơ thể người phụ nữ. Thậm chí áo dài còn là trang phục che khuyết điểm rất tốt, chẳng hạn đối với chị nào mặc cảm vì chân nhỏ thì khi mặc áo dài chiếc quần ống rộng sẽ che đi rất nhiều khuyết điểm ấy. Còn với chị nào có dáng hơi thấp cũng đừng lo ngại, bởi vì có thể mang giày gót hơi cao một tí sẽ không sợ bị lố quá đâu vì đã có chiếc quần dài che gót giày rồi.   

     Tóm lại chiếc áo dài không kén chọn vóc dáng cũng như chiếc áo dài là hình ảnh của người phụ nữ Việt từ xưa đến nay, từ những mỹ nhân vang danh như Nam Phương hoàng hậu đến các chị các mẹ quẩy gánh hàng rong ngoài phố chợ, áo dài đều xem là trang phục hàng ngày nên thiết nghĩ tại sao thời nay chúng ta không phát huy và tôn vinh chiếc áo dài dân tộc?  

     Ngay bản thân mình là một người cũng rất yêu áo dài nhưng có một thời gian mình có nghe gió thoảng một số lời nhận xét bảo nó có phải là người làm công sở đâu lại hay thích mặc áo dài, có lẽ nó muốn nổi trội? Hay thích khác người? Nhưng bây giờ thì mình không còn phải suy nghĩ về điều đó nữa, vì đơn giản rằng mình yêu và thích mặc áo dài, chỉ vậy thôi! 

     Cũng nói thêm rằng đã là áo dài thì mình chỉ thích áo dài truyền thống, vì nó tôn dáng của người phụ nữ rất nhiều. Thật sự mình khá dị ứng với mấy kiểu nửa áo dài nửa váy vì theo mình chiếc áo dài luôn đẹp với dáng vẻ tha thướt, nó làm cho người phụ nữ trông dịu dàng nền nã hơn, thể hiện sự thanh lịch mà vẫn sang trọng quý phái.  

     Dịp Tết Nguyên đán vừa rồi mình nhận thấy Huế đã thật sự đẹp hơn hẳn khi dường như chiếc áo dài là trang phục được chị em mình chọn để du xuân thật nhiều, điều đó làm mình thấy tự tin và cảm thấy mình không còn lạc lõng khi mặc chiếc áo dài nữa. Còn thêm một điều nữa rằng ngày nay nếu mọi người ghé chợ Đông Ba đến quầy hàng thịt sẽ thấy hình ảnh một mệ ngồi bán thịt bò, lúc nào mình cũng thấy mệ mặc áo dài cả. Hình ảnh mệ khiến mình thích thú và đó là điều giải thích tại sao mỗi lần đi chợ mình vẫn thường hay ghé mua ủng hộ mệ ấy.

     Nên chị em chúng mình ơi! Hãy cứ mặc áo dài mà không ngại ngần dù mình thuộc tầng lớp nào, công việc gì, vì mình là người phụ nữ Việt Nam và chiếc áo dài truyền thống là một nét đẹp văn hoá Việt Nam mà những nơi khác không dễ gì có được.

     Hãy cứ vậy nhé! Tự tin chọn cho mình những chiếc áo dài đẹp và phù hợp để cùng nhau xuống phố. Hãy cứ làm cho mình mỗi ngày đều là 8.3 đi nào!

     Áo dài muôn năm!

THÚ ĐI CHỢ CHIỀU CUỐI NĂM!

      Năm nào cũng vậy, ngày 30 Tết dậy sớm lo công việc nấu cúng gia tiên cho tròn đạo làm dâu và nhà cửa trang hoàng dọn dẹp đâu vào đấy xong niềm vui mong chờ nhất trong suốt một năm tất bật đó là lang thang chợ chiều cuối năm.

      Hàng năm thường chỉ một mình nhưng mấy năm gần đây lại có thêm anh bạn nhỏ đồng hành và đồng sở thích - từ mấy hôm trước con trai đã thỏ thẻ rồi: "Mẹ ơi! Mai mốt mẹ cho con đi chợ chiều cuối năm với mẹ nghe, không được trốn con đi một mình mô đó!".

     Vậy là năm nay mình có tài xế rồi. Hòa cùng dòng người rộn rã hai mẹ con thong dong qua những cung đường ngập tràn sắc hoa để đến chợ Đông Ba.

     Bao giờ cũng vậy, công việc sắm sửa đã xong từ mấy hôm trước nhưng vẫn thích cái cảm giác ấy, cảm giác được thảnh thơi ngắm nhìn những gian hàng ngập tràn màu sắc của Tết, những xanh đỏ vàng tím phong phú chủng loại của bánh mứt, những mẹt phong bao lì xì đỏ rực trong ánh nắng chiều, những mời chào rộn rã và trong đó có phần nào như khẩn khoản, như muốn níu kéo thời gian không còn lại bao lâu. Nhất là những món hàng mà bắt buộc phải bán hết trước Tết như mứt bánh thì không khí càng như khẩn trương hơn .

     Hàng mứt bánh năm này vẫn còn nhiều lắm, thương sao khi chị bán mứt bán cho mình với giá đã thoả thuận nhưng chép miệng với người bên cạnh: "Thôi kệ, bán lỗ vốn để còn về nhà lo ba ngày Tết!". Lòng chợt chùng xuống, hai mẹ con bất giác nhìn nhau và mình quyết định trả cho chị ấy cân mứt với giá chị nói ban đầu. Có những lúc mình kiếm tiền từ những đồng bạc khó khăn nhưng cũng có những lúc mình phải biết chia sẻ vì sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình, đem lại niềm vui cho người cũng chính là đem lại niềm vui cho mình, và mẹ rất vui vì qua ánh mắt mẹ biét con trai mẹ có sự đồng cảm.

     Chợ chiều cuối năm rải rác những gian hàng đã đóng cửa nên chẳng còn không khí rộn ràng như những ngày trước nữa.  Nhưng không hiểu sao tôi vẫn thích như vậy: ghé từng gian hàng đôi khi chỉ là để ngắm nghía thôi. Chỉ để cảm nhận cái sự gì rất đời thường và cũng như tự thưởng cho mình những giờ phút thảnh thơi hiếm có, tất cả những món gì con thích, những thứ gì con cần mẹ đều mua cho con ngoại trừ những món gì mẹ biết không an toàn vệ sinh thực phẩm là mẹ khuyên con thôi. Chính vì vậy nên con rất thích đi chợ cùng mẹ và dù mang nặng nhưng con vẫn luôn nói không sao.

     Dạo, ngắm, trả giá, nâng lên để xuống và... thử mứt chán mẹ nhờ con trai chụp cho mẹ tấm hình ngồi bên chị bán bao lì xì với một mẹt muôn màu muôn sắc rực rỡ. Chụp ảnh xong con nhắc nhỏ: "Mẹ mua giúp dì ấy bao lì xì đi mẹ". Ôi con trai tôi! Qua một buổi chiều ngắn ngủi mà mẹ đã thấy con trai mình đã thật sự trưởng thành rồi! Cám ơn con đã làm mẹ vui vì lòng từ tâm của con. Mẹ mua giúp cô ấy một xấp bao lì xì nhưng mẹ biếu thêm số tiền bằng ba xấp ấy rồi hai mẹ con rời đi, con vẫn ngoái cổ lại: "Chúc dì ăn Tết vui vẻ nghe!" Ngạc nhiên? Con trai mẹ bữa nay còn biết khéo miệng nữa chứ!

     Nụ cười tươi từ chị bán hàng với nét mặt khắc khổ, từ con và từ mẹ đã khiến những bông mai dọc đường về của hai mẹ con như càng thắm hơn, phố xá chiều nay ai cũng đẹp hơn và mùa xuân này niềm hy vọng dâng ngập lòng hơn. 

     Cám ơn con vì con là tất cả mùa xuân của mẹ!

 

 ĐÓN GIÁNG SINH TRONG BỆNH VIỆN

     Nơi đây tôi đã gặp: Những gương mặt giàu tình nhân ái

     Nơi đây tôi đã gặp: Những bệnh nhân dù đang mang trọng bệnh vẫn luôn giàu nghị lực sống bằng sự lạc quan, chiến thắng bệnh tật để cất lên lời ca.

     Nơi đây tôi đã gặp: Cô gái trẻ dù đang mang trong mình căn bệnh hiểm nghèo vẫn luôn đầy nhiệt thành và tâm huyết đồng hành cùng chương trình suốt ba năm qua và nụ cười thân thiện của cô gái đó đã làm tôi rơi nước mắt. Thương em!

     Nơi đây tôi đã gặp: Em bé có giọng hát trong trẻo (dù phong cách biểu diễn tôi không thích lắm, vì dường như có sự can thiệp của người lớn nhiều làm ảnh hưởng đến tố chất của em) nhưng em đã làm lòng tôi tan chảy khi người dẫn chương trình mời mẹ em lên, mẹ em cũng mắc bệnh nan y đang điều trị tại đây, lúc ấy em đã khóc, ánh mắt trẻ thơ long lanh ngấn lệ đã ám ảnh tôi suốt đêm hôm qua. Bé thơ ơi, thương em thật là nhiều!

     Giáng sinh về, tôi chỉ muốn cầu nguyện một điều duy nhất: Cầu cho muôn người được sống trong tình thương bao la của mọi người, cầu cho nhân loại tất thảy đều an vui!

RÚ CHÁ BÌNH YÊN

     Có một ngày như thế, có một thời khắc như thế... Gió đông nồng nàn se lạnh, bốn bề lồng lộng trên đỉnh cao nhìn xuống những nhành chá trơ gầy khẳng khiu. Có một tâm hồn tưởng chừng như đã chìm sâu vào những u uẩn chốn hồng trần nay bỗng nhiên thấy mình như được gột rữa.

   Muốn cùng thiên nhiên hoà quyện vào một khúc hoan ca bất tận, muốn được hét to giữa bao la đất trời trong một phút giây chợt lãng quên hiện tại, muốn nhiều, thật nhiều... nhưng cũng chỉ cuối cùng muốn thật tĩnh, thật yên để cảm nhận từng chút, thế, và như thế  giữ mãi những điều êm đềm ấy, cho hôm nay và mãi mãi ngàn sau. 

     Rú Chá, ta còn nợ người những điều ta đã hứa và ta sẽ tìm về bên người những lúc ta muốn tìm một vùng trời bình yên!

     Chỉ chừng đó thôi!

TRÀ OM

     Được một người quen giới thiệu, chúng tôi ghé quán trà Om trong một chiều cuối thu vàng nhạt nắng.

     Thật sự nếu không chú ý thì chúng tôi cũng sẽ khó mà để ý đến quán trà này vì dường như ai mới lướt ngang qua cũng ngỡ rằng đó là một ngôi nhà của ai đó thôi chứ không nghĩ đó là một quán trà. Và thậm chí lúc chúng tôi đến anh bạn của tôi giới thiệu một người đàn ông đang đứng tưới cây trong vườn là chủ quán, tôi đã hơi bất ngờ, anh ấy chỉ cười nhẹ gật đầu chào chúng tôi rồi lại cắm cúi làm xong việc của mình rồi mới thủng thẳng đi vô.

     Nhưng điều gây ấn tượng nhất với chúng tôi đó là... boooong booong... booong…

     Vâng, đó là những tiếng chuông chùa và ngay giữa gian nhà là bàn thờ Phật được chủ nhân bài trí hết sức trang nghiêm. Tiếng chuông thỉnh thoảng ngân lên và tự nhiên chúng tôi không ai bảo ai tự biết mình cần phải giữ một sự nghiêm trang tối thiểu, tránh nói chuyện quá ồn ào, kể cả lúc muốn ghi lại những tấm hình lưu niệm chúng tôi cũng giữ ý tránh làm xáo trộn những gì chủ nhân đã bài trí.

     Chỉ với một diện tích ước chừng hai trăm mét vuông trở lại và nó chẳng khác nào là một căn nhà ở nông thôn, và sở dĩ tôi thấy gần gũi bởi vì ở đây gợi lại cho tôi kỉ niệm thời thơ ấu của tôi trong ngôi nhà đơn sơ mộc mạc ngày ấy. Om mộc mạc từ những chiếc chén trà, chiếc dĩa đựng vài củ khoai lang, đến khúc mía trái bắp bên bếp lửa hồng.

     Khoảng sân trước nhà trồng những luống cải, cây ớt, gốc chuối bên cạnh chiếc lu đầy nước với chiếc gáo dừa, một bụi chuối đang trổ hoa và bụi hồng gai đang hé nụ, chậu cúc vàng sóng sánh trong nước tạo nên một bức tranh quê dung dị mà huyền ảo lạ thường.

     Lát sau bếp lửa được chủ nhân nhóm lên và một nồi bắp luộc nghi ngút khói quyện vào ánh nắng chiều xuyên qua kẽ lá. Chúng tôi chuyện trò trong một khung cảnh đầy chất thơ và thi thoảng tiếng chuông vẫn ngân lên trầm bỗng, xa vắng, vọng ngân...

     Chiều muộn rồi ! Chúng tôi giã biệt ra về mà thấy lòng nhẹ nhõm như vừa vứt hết bao ồn ào náo nhiệt chốn phố phường đô hội để trở lại một chút thanh bình yên ả của một thời đã có và đã xa.

     Cám ơn Trà Om đã cho tôi một buổi chiều nhiều thú vị và an yên trong tâm tưởng. Cám ơn Trà Om đã cho chúng tôi chút hoài niệm , đưa chúng tôi trở về miền kí ức xa xưa…

ĂN MỒNG NĂM

     Chị em nhà tôi hay gọi hôm nay là ngày mồng Năm, chứ ít khi gọi là ngày Tết Đoan Ngọ như mọi người lắm. 

     Buổi sáng chúng tôi háo hức chờ mạ đi chợ về sẽ mua bao nhiêu là thứ, mà hôm nay thứ không thể thiếu trong giỏ của mạ tôi là con vịt kêu cạp cạp và những hạt kê vàng óng.

     Chúng tôi cùng phụ với mạ, đến gần trưa thì cũng xong một mâm với đầy đủ thịt vịt, bánh tráng. chè kê. Bày biện dâng lên bàn thờ cúng lễ xong cả gia đình tôi cùng nhau ăn trưa vui vẻ; và bao giờ chúng tôi cũng nghe mạ nhắc một tục lệ là ngước mắt lên nhìn mặt trời vào đúng giờ ngọ. 

     Ăn xong lại rủ nhau lên đồi cùng lũ bạn đồng trang lứa để hái những loại lá cây bò bò, bốm bạc, vằn... về phơi khô. Để rồi mỗi ngày lại lấy một dúm nấu nước uống có khi gần cả năm mới hết.

     Ngày ấy là những gì in đậm trong kí ức của tôi và chị em chúng tôi. Bây giờ mỗi đứa đã có gia đình riêng rồi nhưng mỗi lần cứ đến ngày mồng Năm tháng Năm âm lịch, nghe ngoài chợ tiếng vịt kêu cạp cạp chị em chúng tôi lại í ới gọi nhau lên nhà cha mạ để cùng nhau "ăn mồng Năm".

      Dù ai có những mối quan hệ và những cuộc vui ngoài xã hội cũng không quên cùng nhau quây quần bên gia đình trong ngày mồng Năm. Ôi! chúng tôi chỉ gọi đơn giản hôm nay là ngày mồng Năm nhưng đó là cả một kho tàng kí ức quý giá mà chúng tôi mãi nặng lòng.

 

AI ĂN BÁNH BÈO…

 

     Bánh bèo - món ăn dân dã mà không kém phần kiêu sa luôn luôn không thể thiếu trong những buổi giỗ của gia đình tôi.

     Ngày xưa, ngoại tôi là một người phụ nữ khéo léo và đảm đang. Mỗi lần nhà có việc chúng tôi thường quây quần bên bà để xem và phụ bà làm nhiều thứ bánh như bánh in, bánh chưng bánh tét, bánh nậm. bánh khoái... nhưng thích nhất là được xem làm bánh bèo. Đó là một công việc đòi hỏi phải khéo léo và chịu khó để cho ra những chiếc bánh không dày quá dễ gây ngán và không mỏng quá sẽ bị bể bánh.

     Mệ tôi sau khi đổ bột gạo vào những chiếc chén sành nhỏ xíu xinh xinh rồi đem để vào một cái nồi to hấp cách thủy, mỗi lần như vậy là được khoảng mười chiếc bánh, chúng tôi được mệ cho ngồi gỡ ra và xếp hàng tròn trên một cái mâm có lót miếng lá chuối phết dầu để bánh lúc gỡ ra không bị dính nhau. Hết mẻ này rồi đến mẻ khác và thấm thoắt cũng đã xong một mâm bánh để sáng mai cúng ông bà.

     Một phần quan trọng khác không thể thiếu đó là phần nhụy bánh. Mệ tôi chọn những con tôm đất còn nhảy lách tách trên rổ tươi ngon rửa sạch rồi đem luộc chín, xong lột sạch vỏ rồi bỏ vào chiếc cối đá to nơi góc nhà giã nát cho thịt tôm tơi ra. Xong mệ bắc chảo phi hành cho thật thơm rồi thả tôm đã giã vào đảo đều cho thịt tôm tơi và săn lại, không quên bỏ thêm ít hành lá cho thơm và có màu xanh đẹp mắt. Nước mắm được pha loãng hơn và thêm ít đường cho có vị ngọt dịu để khi ăn người dùng thường chan nhiều vào bánh mà không bị mặn chai lưỡi.

    Tôi đã ăn bánh bèo của người miền nam nhưng không thích lắm vì cái bánh đổ dày và nước mắm thì ngọt quá. Phải chăng cái bánh bèo và những món Huế nói riêng mang đậm cái phong vị của đất Thần kinh nên chiếc bánh bèo Huế cũng toát lên một phong cách hoàng phái, bình dị mà thanh tao, dân dã mà kiêu sang hồn cung điện.

     Chiếc bánh lúc trình bày ra dĩa được xếp thành hình như những cánh hoa, nhụy tôm đỏ rải đều và màu hành lá xanh bắt mắt, cộng thêm mùi hành phi thơm nức mũi níu kéo bước chân ai đang đói lòng giữa lúc cơm trưa đã hết cơm chiều thì chưa xong.

     Ngoại tôi giờ đã về với tổ tiên ông bà nhưng sở thích thì ba mạ tôi (ba tôi dù là con rể) vẫn không bao giờ quên, nên mỗi lần giỗ mệ ba tôi lúc mô cũng hay nhắc: "Làm gì thì làm nhưng món bánh bèo phải ngon và phải nhiều nhiều nghe con!". Để làm chi? Chỉ là vì ngày xưa món mệ thích và cũng để những bà con lúc đến ăn giỗ mạ tôi thường gói ghém gởi cho mấy đứa trẻ ở nhà có quà gọi là của ít lòng nhiều.

     Bây giờ, có nhiều người bán bánh bèo chắc có lẽ vì theo thị hiếu và kinh tế nên vài người bán thay nhụy tôm bằng nhụy đậu xanh nên ăn cái bánh bèo không còn giữ được hương vị như xưa (Hay tại vì tôi khó tính, hay bánh bèo mệ tôi làm ngày xưa đã thấm vào trong tôi?) Nên thà không ăn thì thôi chứ đã ăn bánh bèo tôi chỉ thích ăn với nhụy tôm thôi. Tuy nhiên vẫn còn những người bán bánh bèo vẫn giữ công thức bánh bèo - nhuỵ tôm và đó chính là cái hương vị mà tôi nhớ mãi mỗi lần nhớ đến món bánh bèo quen thuộc.

     Một chặng đường gió bụi nắng cháy, dừng chân dưới gốc me râm mát và nhìn bàn tay thoăn thoắt khéo léo làm nên dĩa bánh bèo đủ cả sắc, thanh, hương, vị mới biết trong đó còn có thêm một chữ tình nữa mới đủ làm nên một món ăn thấm đượm phong vị Huế.

     Chợt nghe da diết và yêu thương biết bao lời rao quen thuộc: "Ai ăn bánh bèo bánh lọc không?”

BÁNH CANH CƠM NGUỘI VÀ TUỔI THƠ TÔI

      Ngày ấy, hàng tháng cầm tấm phiếu xếp hàng chờ được mua những đồ dùng như cục xà bông bộ đội, dầu phụng, dầu hoả, chăn bông... trên cửa hàng mậu dịch của hợp tác xã thì tô bánh canh để lót dạ buổi sáng với chúng tôi còn là một điều xa xỉ lắm. 

     Thường thì gánh bánh canh cua của O Đồng đến ngang nhà tôi thì lúc đó chị em tôi đã vội vã đi học rồi nên mạ tôi vẫn thường hay mua để dành cho mỗi đứa mỗi tô để đi học về sẽ ăn. 

     Chúng tôi sau buổi học về bao giờ cái bao tử cũng biểu tình sau những trò chơi hiếu động ở sân trường nên vừa về đến nhà là sà ngay xuống bếp lục cụi tìm tô bánh canh ngay, ngon không có quà gì bằng. 

     Không những thế, chỗ cơm nguội tối hôm qua còn thừa bao giờ chúng tôi cũng tận dụng thêm để bỏ vào trộn chung cùng với bánh canh. Mà dường như mạ hiểu ý nên bao giờ nấu cơm mạ cũng cố tình nấu thêm một ít để chúng tôi bỏ thêm vào. Rồi dần dần chúng tôi phát hiện thì ra thói quen bỏ thêm cơm nguội vào bánh canh không phải chỉ riêng gia đình tôi mà rất nhiều người đều như vậy, và cả món bún bò cũng là món mọi người vẫn thích bỏ thêm cơm nguội vào.   

     Phải chăng thời đó khái niệm ăn chắc mặc bền luôn hình thành bởi vì hầu hết nhà nào cũng làm ruộng vườn nhiều nên ăn như vậy để thêm đằm bụng, cho anh vác cày, cho chị cấy lúa, cho ba lên rẫy, cho mạ trồng khoai. Không như bây giờ buổi sáng chỉ cần ra đầu ngõ là có vô số hàng quán với muôn vàn món ăn, thời chúng tôi đa phần là sáng dậy sớm nhen lửa nấu cơm rồi ăn với nước mắm, có khi là vài con cá kho khô còn sót lại hôm qua, vậy nhưng bao giờ cả nhà cũng quây quần bên nhau trong mỗi bữa cơm gia đình.   

     Lâu lâu được mạ mua để dành cho tô bánh canh là chúng tôi thích lắm, và điều đầu tiên trước khi ăn là chúng tôi lại vét nồi cơm nguội. Bây giờ, ở đầu đường Trịnh Công Sơn vẫn có một hàng bún bò Huế vẫn còn lưu giữ nếp cũ này. Khách ở đây đa phần là dân cửu vạn bốc vác hoặc các chú đạp xích lô xe thồ hay thậm chí là những người khách sang trọng nhưng vẫn có thói quen chung khi vào quán này ngoài kêu tô bún còn gọi thêm một chén cơm nguội.

     Hình như với những người khách này, họ ăn không đơn thuần chỉ là để ấm dạ buổi sáng mà trong đó còn để hoài niệm về một kí ức tuy khó khăn nhưng tình làng nghĩa xóm luôn nhân hậu và gần gũi. 

     Và với một tính cách thích hoài niệm như tôi thì tô bánh canh thêm cơm nguội thời thơ bé đến bây giờ vẫn còn là một thói quen trong tôi. Để hiện tại này, dù cuộc sống đã có nhiều đổi thay nhưng với tôi tô bánh canh cơm nguội mãi mãi in đậm trong kí ức tôi: rưng rưng, độ lượng ấm tình cha, bao la mát lành tình mẹ! 

LÀM BÁNH LỌC THÔI!

            Giời mưa ở Huế sao buồn thế

   Cứ kéo dài ra đến mấy ngày

     Đó, ngay cả ông Nguyễn Bính ghé thăm Huế tôi chơi chút thôi mà còn phải thốt lên câu than thở, nhưng với chị em nhà tôi mùa mưa là mùa thi vị nhất.

     Chúng tôi cùng lũ bạn hàng xóm bày ra không biết bao nhiêu trò chơi. Trời mưa không thể ra đường bay nhảy thì lượm sỏi về vạch đất chơi ô làng, chơi banh thẻ hay bắt chước người lớn ra con suối quanh nhà múc nước bằng mấy cái ống tre rồi té nước nhau ướt áo quần về mạ quất cho mấy roi.

     Nhưng hết đau ngay khi thấy thau bánh lọc mạ tôi làm thơm nức mũi khiến cái bao tử buổi chiều ham chơi chừ tha hồ mà biểu tình. Ngày đó, mỗi lần trời mưa là chị em tôi: Làm bánh lọc thôi!

     Rứa là nếu làm bánh trần thì đứa nhồi bột, đứa rim tôm; còn nếu làm bánh gói thì lá chuối ngoài vườn đó ra hái rồi đứa luộc lá, đứa lau khô. Ba tôi thích ăn bánh nhụy đậu xanh nên bao giờ mạ tôi cũng làm riêng một ít.

     Một câu nhắc bất hủ của ba tôi là bánh bột lọc phải rim con tôm thiệt đậm đà, không ngọt quá cũng không mặn quá, vì nó quyết định cái bánh có ngon hay không. Chị em tôi vừa quây quần gói bánh vừa nhắc nhau ngồi gần nhau cho ấm, kể chuyện trường, chuyện lớp thoáng cái đã đã làm hết vèo.

     Công đoạn cuối cùng là làm nước chấm. Đơn giản nhưng không phải như đang giỡn mô! Phải là nước mắm ruốc, thứ nước mắm chỉ có vùng biển miền Trung mới có sự đậm đà riêng biệt, xắt vô trái ớt xanh, vừa chấm vừa hít hà cái lạnh như xua đi.

     Thôi chết, quên mời nhà hàng xóm, xách rổ le te nhảy qua hàng rào là tới, cười vui.

     Quê tôi thế đấy, mộc mạc đơn sơ nhưng tình quê nặng lắm. Đi mô xa chỉ muốn về nhà thôi, để được cùng nhau luộc lá tìm tôm làm bánh, để được nghe câu nhắc của ba, để thấy tay mạ đảo bột, để được ăn vài con tôm sót lại sau khi làm bánh xong. Để được nghe tiếng gọi của mạ: "Quỳnh Hon Tý Cườm ơi! Về ăn bánh lọc nì!”

BÁNH KHOÁI CÁ KÌNH LÀNG CHUỒN

           Cứ vào độ giữa tháng tư đến tháng bảy, đó là khoảng thời gian cá kình vừa đủ độ lớn để vẫy gọi tôi ghé làng Chuồn thưởng thức món bánh khoái cá kình giòn thơm ngon ngọt trứ danh.

     Cá kình - thật ra thì loài cá này có mặt rất nhiều nơi nhưng chỉ có những vùng đầm phá nước lợ như Cầu Hai, Thuận An, Đầm Chuồn... con cá kình thịt mới có hương vị đặc biệt thơm ngọt ngon chinh phục những người sành ăn nhất.

     Cũng cần phải nhấn mạnh thêm rằng cá kình sống ở vùng đầm phá con cá to nhất cũng chỉ bằng chừng ba đến bốn ngón tay, không như cá kình sống ở biển tuy kích thước to nhưng độ ngon ngọt nếu đem so sánh thì thua cá kình đầm phá rất nhiều.

     Cá kình đầm Chuồn thịt trắng thơm, mềm mại thường hay được nấu canh với thơm, cà chua. Khi nước sôi bỏ cá vào cùng vài lát thơm, vài lát cà chua và hạ lửa nhỏ liu riu một lát xong tắt bếp rồi rắc hành ngò lên: ta đã có một nồi canh thanh dịu ngọt mát giải nhiệt cái nóng oi bức của mùa hè miền Trung.  

     Người biết thưởng thức cá kình thường ăn không bao giờ bỏ ruột cá bởi vì ruột cá rất ngon và đặc biệt mật cá kình rất tốt cho giấc ngủ sâu. Cá kình còn được chế biến thành nhiều món ăn như cá kình hấp mồng tơi, cá kình hấp tiêu hành, cá kình um măng chua, canh cá kình nấu thơm vv... nhưng với người dân làng Chuồn từ bao đời nay có lẽ món bánh khoái cá kình là món ăn khoái khẩu nhất bên cạnh những thương hiệu bánh tét, bánh bao, rượu làng Chuồn nổi tiếng.   

     Muốn thưởng thức bánh khoái cá kình không khó, nếu tính từ thành phố chỉ cần chạy xe chừng 6 cây số về hướng đông thẳng tới làng An Truyền (mất khoảng chừng 20 phút), không xa mấy nhưng bù lại dọc đường bạn tha hồ ngắm những ao sen, những ao bèo hoa tím và những chiếc cầu tre nên thơ trữ tình đậm chất đồng quê làm rung động những tâm hồn yêu thiên nhiên dân dã.

     Ở chợ Chuồn có nhiều hàng quán nhưng tôi thích nhất là thưởng thức bánh khoái nơi quán nhỏ ven đầm Chuồn được mấy O, mấy mệ dựng lên để ngồi đổ bánh. Đặc biệt cá không có sẵn trong quán mà cá do bạn tự chọn mua từ các mẹt cá mới đánh bắt từ đầm Chuồn lên bày bán gần đó; xong đem đến nơi đổ bánh và họ chỉ lấy tiền công đổ bánh thôi.

     Những con cá mới được vớt từ phá lên còn xanh tươi bụng vàng óng được người đổ bánh rửa xong cho vào một chiếc khuôn nhỏ đã tráng lớp dầu rồi thêm vào vài cọng giá sống.

     Hôm nay chúng tôi ghé quán O Sen để nhờ đổ bánh, bên bếp lửa ấp iu nồng đượm chúng tôi say sưa ngắm cảnh đầm phá buổi ban mai và tận hưởng hương vị mằn mặn của gió đầm hoà quyện mùi thơm từ những khuôn bánh tỏa ra ngất ngây.

     Con cá kình béo ngậy bụng tròn căng thịt thơm lừng nằm giữa chiếc bánh tròn như vầng trăng mười sáu và chen nước mắm ruốc có những lát ớt xanh đỏ mới quyến rũ làm sao!

     Nhẹ gỡ từng miếng thịt cá thơm ngon và miếng bánh dòn tan trong miệng để từ từ cảm nhận hết vị ngon của món ăn mới thấy hết cái tinh tế của người dân nơi đây qua nhiều năm tháng.

     Vừa ăn chúng tôi vừa nhớ đến hình ảnh trong bài thơ “Bánh khoái cá kình” của nhà thơ Võ Quê - một người sinh ra từ ngôi làng này: 

Cá kình vừa béo vừa ngon 
Em đổ bánh khoái xương dòn thịt thơm
Vừa ăn vừa nhấp rượu Chuồn
Món quê dân dã tiếng đồn gần xa

     Có lẽ vị quê nơi đây đã in sâu vào tâm hồn thi phú của ông nên ông mới cho ra đời những câu thơ thấm đẫm chất quê như vậy!

     Mặt trời dần hé lên từ những rặng tre quanh làng,ánh dương toả nhẹ vòng ôm những con thuyền sau một đêm đánh bắt rập ràng giờ nằm ngơi nghỉ, gió đầm phá mặn mòi làm đôi má thiếu nữ đổ bánh hồng lên hay ngọn lửa ấp iu đã tạo nên một bức tranh quê giữa đời thường dung dị mà ngây ngất.

     Đôi vợ chồng quê chiếc bánh chia hai, nhường miếng ngon cho nhau mà nghe tình quê láng lai đượm nồng hạnh phúc. Ngoài kia, nắng đã thật sự lên rồi.

     Chúng tôi rời An Truyền, rời món bánh khoái cá kình làng Chuồn mà nghe trong từng mạch nguồn cảm xúc; hương vị mặn mòi của đầm phá len lỏi, những câu hát trong đêm trăng giữa sóng nước đầm phá lẫn trong tiếng thài mùa Thu tế rộn rã nhịp nhàng hứa hẹn một mùa cá kình xanh ngon cùng những chiếc bánh khoái cá kình ngọt ngon dòn thơm mời gọi!.

 QUÁN MẪN MẬP


     Ấn tượng của tôi lúc vào quán là lời chào thân thiện cùng nụ cười tươi rói đầu ngày!

Bàn ghế trong quán không bài trí như những quán ăn sáng thông thường mà với những bộ bàn ghế gỗ màu đen gọn gàng bắt mắt trông có vẻ là một quán cà phê lịch sự thì đúng hơn.

     Điều gây ấn tượng đầu tiên ngay khi vừa ngồi xuống là những chén gia vị sạch sẽ tươm tất được đặt trên mỗi bàn và dưới chân bàn là những chiếc xô nhỏ để thực khách bỏ rác sau khi dùng vào đấy.

     Nhưng ấn tượng nhất không hẳn là những món ăn vẫn được chủ quán thay đổi thực đơn liên tục hôm thì bún bò, hôm thì cháo gạo đỏ, hôm thì xôi thịt hon... mà đó là những bản nhạc sang trọng trữ tình. Có lẽ âm nhạc là sở thích của tôi nên khi vừa ăn vừa được nghe những bản nhạc từ các danh ca như Thanh Hà, Tuấn Ngọc, Khánh Ly... tôi có một sự yêu mến đặc biệt dành cho chị chủ quán và những chị ở đây mà tôi đoán là mấy chị em gái trong nhà cùng nhau bán.

     Qua những lời trò chuyện ngắn ngủi tôi cảm nhận được ở gia đình này một sự hiểu biết và trình độ nhận thức cao mặc dù với tôi trình độ học vấn tôi thường không quan tâm mà chỉ thường cảm nhận qua tiếp xúc.

     Mấy chị bán ở đây thái độ rất niềm nỡ nhiệt tình và hiếu khách, tôi chỉ mới đến một vài lần nhưng thật ngạc nhiên khi sáng nay chị lớn tuổi gọi đúng tên tôi (có lẽ do người bạn đi cùng với tôi gọi tên nên chị ấy nhớ, và đó có lẽ cũng là một trong những nghệ thuật thể hiện sự mến khách cần có trong kinh doanh nhất là về mặc hàng ăn uống).

     Chỉ vài lần ghé quán chị nhưng ở đây có một điều gì đó làm tôi rất có cảm tình.

Tôi chợt nhận ra mảnh đất Huế mình đang sống thật rất đỗi đáng yêu. Người Huế đâu chỉ như những nhận định của một số người là luôn lạc hậu, bảo thủ và không hòa nhập với xã hội trong thời đại ngày càng đổi mới. Mà người Huế có một cách hòa nhập rất riêng, vẫn mang trong mình dịu dàng một hồn Huế đằm sâu trong từng dáng vẻ, trong từng lời ăn tiếng nói để làm sao vừa có nét năng động trẻ trung hoà nhập với công việc hàng ngày vẫn vừa giữ nét trầm lắng dịu dàng duyên dáng rất riêng không lẫn vào đâu được.

     Viết đến đây tôi chợt liên tưởng đến mình - một cô gái bán buôn lúc thì mặc bộ đồ bộ ở nhà, lúc quần short, áo pull nhưng trong tủ áo quần của tôi lúc nào cũng phải có vài bộ áo dài. Tôi thường thích ghé đến những di tích đền đài lăng tẩm hoặc những danh lam thắng cảnh ở Huế, và chiếc áo dài luôn là sự lựa chọn của tôi.

     Và bạn biết không, thỉnh thoảng tôi còn được vinh dự tham gia Câu lạc bộ Ca Huế Thính Phòng với tư cách là một giọng ca từ hàng ghế khán giả. Trong không gian lịch sự và thấm đẫm nền văn hoá nền nã của xứ Thần Kinh nổi tiếng của đàn ca thi hoạ tôi được cất cao giọng ca của mình, ca những làn điệu Ca Huế như Hành Vân, Tương Tư Khúc... tôi càng thêm yêu Huế, yêu những con người mộc mạc, hồn nhiên đang từng ngày làm cho Huế đẹp hơn, mới hơn mà mấy chị em của quán ăn sáng nay là một ví dụ.

     Và đương nhiên là tôi sẽ thường xuyên ghé để ủng hộ cho quán rồi!

VIẾT NGẮN CHIỀU CUỐI NĂM

     Huế của tôi những ngày cuối năm được ông trời thương nên cho những tia nắng ấm xua bớt những ngày dài giá lạnh.

      Đó là những ngày Huế thật sự bừng tỉnh và phấn khởi hẳn lên. Người ta hăng hái sửa sang nhà cửa để đón Tết cổ truyền đang sắp sửa tới, người ta háo hức rủ nhau đi mua sắm đồ đạc áo quần, người ta sẵn sàng chi một vài triệu thậm chí vài chục triệu chỉ để mua một cành mai vàng chơi Tết, để rồi qua mấy ngày xuân vứt ra đường như cành củi đã héo khô mà chẳng mấy ai phải bận tâm đến tiếng thở dài sườn sượt cùng ánh mắt lo lắng của o bán ghánh bánh canh Nam Phổ bên lề đường vắng người qua lại.

     Một nụ cười buồn khi tôi hỏi đã sắm sửa gì cho mấy đứa nhỏ ở nhà chưa. "O thấy đây nì, chừ mà xoong bánh canh ni chưa hết, áo quần tết của tụi nớ là ở đây nì o ơi! Chừ mưa lại nối mưa nữa rồi”.

      Huế tôi ơi răng mà cực hoài ri hè? Lạy trời! Xin đừng mưa nữa Huế ơi. Ngoài kia, lại một nhành mai to quá đầu người đang được hạ xuống chỉ để chưng năm ba ngày Tết... và tiếng rao của bánh canh Nam Phổ rệu rã, đều đều...

 ƠN NGHĨA SINH THÀNH

     Đôi lúc giữa những bộn bề cuộc sống, những cuộc vui bên bạn bè hay đơn giản là những giao tiếp bên ngoài làm ta vô tình lãng quên những điều ngỡ rằng đã cũ.

     Để rồi ta lướt qua, lướt qua, ngày này qua tháng khác và mọi điều tốt đẹp vẫn diễn ra, ta ung dung thụ hưởng những gì ta đang có để rồi chợt giật mình và thèm đến quay quắt một nồi cá nục kho với những miếng xơ mít mạ vẫn thường để dành phơi khô chờ khi mùa đông mưa dầm đem ra để kho ăn cho mặn miệng và cái chính là tiết kiệm lúc mùa mưa gió khó khăn con có cái no đủ để đến trường.

     Để rồi ân nặng nghĩa dày và những con cua bây giờ được xếp vào hàng đặc sản và ngon nhất của nhà hàng ta đem mời cha mẹ không đủ giá trị để so sánh với những con rạm bè mạ nấu nồi canh chua ta ăn ngày ấy, con cá mú to đùng thịt thơm ngon bây giờ cũng không thể sánh bằng những con cá cơm phơi khô mạ rim cho ta đưa cơm, và những lon sữa đắt tiền cũng không thể giá trị hơn những bình nước hồ mạ chắt ra từ nồi cơm nấu bằng củi.

     Đó là sự thật và bất cứ một sự so sánh hoặc trả ơn nào cũng sẽ là khập khiễng với cha mẹ của chúng ta. Thấy miếng ngon hôm nay như nghẹn lại khi ba bảo thôi không ăn nữa để dành cho đứa cháu hôm nay vắng mặt, ba già rồi có ăn được bao nhiêu đâu!

      Phải rồi, ba nói đúng, ba già rồi có ăn được bao nhiêu đâu. Câu nói của ba làm con giật mình. Lá rụng về cội, hôm nay còn không ăn được bao nhiêu và nếu có một ngày... chúng con cúng nhiều thức ăn dâng lên bàn thờ thì... biết ba có về không? Ôi! Ba Mạ tôi một đời vất vả! Chắt chiu để dành cho chúng tôi cả một gia tài ân nặng đò chành.

CẢM TÁC NGÀY XUÂN

     Đêm cuối năm, mưa và lạnh vây kín bước độc hành.

     Những ánh nến lung linh và những khóm thạch thảo vẫn mong manh bình yên bên tách cà phê nóng hổi. Một năm đã trôi qua, ta làm được gì, vẫn là một câu hỏi chưa có lời đáp. Ngoài kia, mưa vẫn giăng và những ngọn nến vẫn nồng nàn.

     Mùa xuân ơi, xin hãy mang theo lời khấn nhỏ, rải muôn hoa tràn ngập khắp nhân gian, mọi con tim đều có nẻo yêu thương để tìm về!

E  Sáng nay vào facebook thấy trang của anh trai một nhành mai vàng khoe sắc còn long lanh những giọt mưa vương vấn trên từng nụ hoa cánh mỏng. Bỗng thấy lòng xôn xao bao niềm vui dù ngoài kia trời vẫn mưa và gió vẫn rét.

     Thế mới biết, dù khắc nghiệt đến thế mùa xuân vẫn hiến dâng cho đời những mầm xanh, xanh của niềm ước vọng, xanh của sự trường tồn để tin vào những mùa tới sẽ có những gam màu tươi sáng hơn.

     Vẳng bên nhà hàng xóm vọng sang giọng Thanh Hoa: "Em ơi mùa xuân đến rồi đó xúc động lòng ta giữa cuộc đời"... Dường như có một chút gì đó khởi sắc, trong từng chồi non lá biếc, trong tách trà thơm ngút khói, trong từng lời hò hẹn thì thầm của ai kia... tất cả đã làm nên khúc nhạc xuân rộn rã.

     "Nghe lòng vui phơi phới kìa em nắng đã lên rồi!” 

 ĐỒNG BÀU VÁ

     Đồng Bàu Vá - tuổi thơ và kỉ niệm - cũ và mới - mừng vui và luyến tiếc cứ dâng trào.

     Vẫn biết rằng nông thôn đổi mới cũng đem lại nhiều cơ hội mới cho mọi người, mọi nhà nhưng sao lòng không thể không nhói khi nhìn từng nhát xẻng của những chiếc xe đang xúc từng muỗng đất khổng lồ, và cũng xúc dần và vắt kiệt những cảm xúc trong tôi.

     Những ngôi nhà mới với nhiều màu sắc kiểu dáng dần chiếm hết rồi những cánh đồng xanh rì bất tận. Đâu rồi để tuổi thơ tôi xắn quần đi học đường mưa lầy trơn trượt, đâu rồi những đêm hè vừa đạp xe trong gió lộng vừa hít căng lồng ngực mùi lúa chín vàng xen lẫn mùi bùn ngan ngát mà cứ vấn vương giấc mơ.

     Chỉ còn lại đâu đây một vài ruộng lúa nhà ai còn tranh thủ cánh tay ông đầu tư chưa vươn tới để còn kịp vụ hè thu. Lòng sẽ đau lắm nếu một ngày nào lên nhà ngoại không còn những cụm sim tím dịu dàng níu chân và chắc chắn ngày chia xa ấy cũng không còn xa xôi nữa.

     Ôi! Bàu Vá của tôi giờ đây đã thỉnh thoảng xảy ra nhiều vụ trộm cắp và cây vả, trái mít nhà tôi cũng thỉnh thoảng không cánh mà bay, đó là những điều xưa nay hiếm ở cái chốn yên bình ấy, âu đó cũng là cái giá của sự chen lấn, trà trộn, giữa cái được và mất của thời cuộc mà thôi. Bàu Vá của tôi ơi! Còn chăng chỉ là hoài niệm và luyến tiếc?.

 TÌNH CHỊ EM ĐẸP VÀ HIỀN

     Cuối cùng ước mơ ấy cũng thành hiện thực. Chị em nhà chúng nó đã được nằm ngủ chung giường một đêm thật vui. Vẫn còn nguyên vẹn những gì ấm cúng mặc dù chỉ đơn thuần là một xoong mì tôm và một đòn bánh tét chiên được nấu "cấp tốc " giữa đêm khuya.

     Sớm mai thức giấc, tiếng gọi của mùi hương hoa bưởi và những trái vả lúc lỉu trong vườn nhà buổi sớm mai cứ khiến người chị gái ở xa về của chúng nó cứ muốn trái nào cũng nằm trong giỏ để đem vô trong ấy làm quà. Ôi chao! Cái hương vị của quê nhà mới nặng làm sao.Thời gian sao quá vội vã đành ngậm ngùi tiễn chân nhau để mỗi người lại về với mỗi góc riêng của đời mình. Vẫn mong sao ở mỗi góc riêng ấy hương hoa bưởi của nhà xưa mãi tỏa hương níu chân và rủ rê nhau cùng tìm về sum họp. Mong ước ấy, cứ mãi hoài không nguôi!

     Nhà tôi, ba chị em gái lần lượt xếp một hàng và cuối đoàn tàu là một thằng em trai chào đời trong niềm vui khôn xiết của ba mạ tôi, rứa là nếp tẻ đầy đủ. Chị em chúng tôi dần lớn lên trong những lời ru ầu ơi của mạ và sự chịu khó cần cù của ba.

     Nghề làm hương lưu truyền của đất Thần kinh đã vun bồi cho chúng tôi những đức tính chịu khó chịu thương từ lúc còn thơ bé. Có quãng thời gian khó khăn chúng tôi một buổi đi học một buổi về lại chăm chỉ ngồi làm hương còn thay phiên nhau nấu cơm rửa chén. Tối về không chờ ba mạ nhắc nhở lại quây quần bên cây đèn dầu leo lét học bài ê a.

      Cuộc mưu sinh thăng trầm của ba mạ tôi đã phần nào ảnh hưởng đến sự học tập của chị em chúng tôi dù ba mạ tôi nổi tiếng hay lo hay mần thời ấy. Và cuối cùng chị gái cả của chúng tôi đã vượt qua được chặng đường gai góc ấy để tự hào là một giảng viên khoa Pháp văn còn chúng tôi những đứa em còn lại lần lượt rời ghế nhà trường để vào đời bon chen với cuộc sống.

     Mặc dù có những cách biệt và chênh lệch về kiến thức, nhưng với tôi chị em chúng tôi vẫn luôn thương yêu đùm bọc nhau không vì địa vị mà chia rẽ nhau để mỗi lần gặp nhau là lại quây quần bên nhau ấm cúng đôi khi chỉ bên mâm bánh lọc giản đơn.

     Tôi - một đứa em gái hay ốm yếu từ nhỏ nên hai chị tôi vẫn thường hay đỡ đần tôi mọi công việc nặng nhọc, nhất là chị cả, vẫn thường giúp đỡ tôi kể cả sau này lúc tôi đã có gia đình riêng rồi chị vẫn hay chăm lo hỏi han tôi như ngày tôi còn bé.

     Những ngày này chị được qua nước Pháp - một xứ sở mà với chị em chúng tôi trong mơ cũng kg dám mơ được đặt chân đến. Qua điện thoại chị bảo nơi ấy đẹp như trong truyện cổ tích các em ạ, và những hình ảnh chị cập nhật chúng tôi ở nhà mắt tròn mắt dẹt thấy tự hào vì chị vô cùng. Ba mạ tôi xem hình mà ánh mắt rạng ngời niềm vui lẫn tự hào nhưng vẫn dặn con gái khi về đừng mua qua cáp gì cho tốn kém chỉ là nếu được hãy mua ít thuốc tây trị xương khớp nhưng nghe bảo bên ấy muốn mua cũng thủ tục này nọ lại rối rít nói thôi thôi nghe con!...

     Vậy đấy, gia đình là tổ ấm, gia đình là yêu thương để mỗi người con dù đủ lông đủ cánh bay đi muôn phương vẫn mong tìm về bên lời ru cánh võng... để được yêu thương, để tìm che chở...

     Từ ngọn nguồn thương yêu ba mạ, tình chị em đẹp và hiền!

 THƯ XUÂN GỬI CHỊ

     Đã hẹn cùng nhau nên mười một giờ đêm giao thừa năm nay hai chị em gọi nhau cùng lên đón giao thừa ở nhà cha mẹ. Đêm cuối năm giá lạnh như cắt da thịt nhưng lòng ấm áp lắm thay!

      Quá lâu rồi phải không chị từ ngày mấy chị em mình đi lấy chồng ngôi nhà xưa như trầm mặc hẳn đi. Em muốn chạy thật nhanh hơn dù vẫn biết rằng chắc chắn sẽ kịp đón thời khắc giao mùa nhưng sao vẫn nao nao một cảm giác thật là khó tả. Dù sao vẫn thiếu chị cả và em út nên niềm vui dường như chưa thật sự trọn vẹn. Kí ức những mùa xưa lại ùa về, tranh giành nhau để mà kể, mà nhớ....

     Ôi! Đêm xuân năm nào cùng xum vầy bên nồi bánh chưng chơi những trò con nít, mấy chị em hay được mạ ưu tiên gói riêng cho mỗi đứa một cái bánh ú cột lạt cầm lủng la lủng lẳng thích ơi là thích. Mạ vừa làm vừa dạy vẻ con gái làm mứt gừng, mứt dừa mà dạ dạ rồi đâu lại quên đấy chỉ được cái tài hưởng xái chút mứt vụn ăn trước tết ngon ơi là ngon thôi.

     Ai không biết chứ em thì đêm giao thừa hầu như thức cả đêm, cứ mong trời mau sáng để được khoe áo mới rồi nhận tiền lì xì. Sáng mồng Một mấy chị em kéo rồng kéo rắn dắt nhau đi chơi, đi mô cũng đầy đủ bốn chị em mình chị hí!

     Thời gian qua nhanh, chúng mình trở thành những thiếu nữ biết chưng diện nên mỗi độ xuân về. Chúng mình lại cùng nhau cắm hoa trang trí nhà cửa thật là rộn ràng. Ngày xuân thuở ấy thật là vui lắm thay. Đó thật sự là những ngày:"Êm đềm trướng rủ màn che. Tường đông ong bướm đi về mặc ai" các chị hè!

     Cảm giác ấm cúng theo chân chị em mình bước ra vườn hái lộc đầu năm. Cây bưởi vườn nhà mình dù thời tiết khắc nghiệt vẫn cố vươn lên nhú những nụ hoa trắng muốt để tặng chị em mình chút lộc thơm thảo.

      Bước vào nhà chợt giật mình thấy tóc ba mạ đã nhuốm màu sương khói nhiều rồi."Mỗi mùa xuân qua ngày tôi xa mẹ càng gần!" Nếu không còn những người thân yêu của mình - liệu một cánh én có làm nên mùa xuân?

     Thời khắc thiêng liêng của đêm giao thừa đã chạm vào những kí ức để cứ mãi gợi nhớ trong em, và mong ước được nằm ngủ chung một cái giường trong ngôi nhà kỉ niệm đang là một điều ước xa xỉ của chị em nhà mình.

     Vẫn còn những giọt sương đêm đang lấp lánh đọng lại trên nhành hoa bưởi thì ước mơ cũng sẽ vẫn còn, chị em nhà mình sẽ cùng nắm tay nhau để cùng tìm về với ngôi nhà xưa và cùng nhau ôn lại những miền kí ức cổ tích mấy chị nhé! Để tiếng cười ngày xuân lại vang lên trong nhà và bụi thời gian sẽ ít đọng lại trên mái tóc các đấng sanh thành của chúng ta. Đó cũng là một trong những điều em thầm cầu mong khi hái lộc!

CẢM XÚC TRONG MƯA

     Một chiều mùa đông giá lạnh, những cơn mưa tầm tã của đất trời xứ Huế như cố trút hết những thăng trầm của đời người xuống những đôi vai gầy.

     Huế vốn dĩ đã trầm lắng nay lại như trĩu nặng hơn bao giờ hết, như những bức tường thành cổ kính rêu phong, như ánh mắt dịu vợi của mệ tôi bên nồi bún bò nghi ngút khói, như ánh mắt lo lắng của chú xích lô trong chiều mưa vắng khách. Như tôi, một kẻ hay thích ngắm mưa để rồi thả lòng mình theo từng nhịp đời và... Tình cờ, bắt gặp những bài viết, những trăn trở của anh - một người con xứ Huế và tôi cảm nhận được tình yêu Huế mãnh liệt trong anh, nên những bài viết của anh tôi như nghe trong đó một khúc nhạc trầm, một tiếng thở dài thật sâu, thật khẽ.

      Anh và tôi - gần mà xa, quen mà lạ nhưng gặp nhau ở một điều mà tôi gọi là Duyên. Tôi bắt gặp ở anh một con người luôn hoài niệm, muốn níu giữ những gì đã thuộc về dĩ vãng vàng son để rồi đành ngậm ngùi nhìn những di sản ấy dần tàn lụi bởi những lớp bụi thời gian bao phủ; mà bản thân anh đành bất lực vì chữ Tâm của anh tuy lớn nhưng không đủ để vực dậy một nền di sản ngàn năm bởi còn cần rất nhiều những mạnh thường quân có tâm trí lực.

     Ôi, đớn đau thay như dinh phủ của cố thi sĩ Ưng Bình Thúc Giạ Thị - một thi nhân vang bóng một thời với những câu thơ bất hủ:"Rượu có mùi hương nên uống mãi/Thi là thuốc bổ cứ ngâm chơi" - nay ban thờ hương tàn lạnh lẽo, nhện làm bạn thay hoa chờ ngày vôi về hòa cùng với đất... Còn nhiều nữa mà đây chỉ là một thí dụ, e rằng nếu không gìn giữ và bảo tồn thì sẽ có một ngày những ai chưa về Huế mà chỉ nghe qua thơ ca báo đài đến với Huế họ sẽ ngạc nhiên vì không biết đang đứng ở đất Thần kinh hay đang ở một nơi phồn hoa đô hội.

     Và cũng tình cờ, tôi gặp một người chú trong lúc tâm trạng không vui nhưng cảnh vật chốn thiền môn giúp tôi và chú có một buổi sáng thật nhẹ nhàng. Một con người có một tấm lòng rất nhân hậu, về thăm quê có mấy hôm nhưng vẫn cố gói ghém thời gian để băng qua mưa lạnh đến với những mảnh đời khốn khó để thắp sáng những nụ cười vốn từ lâu đã héo úa trên môi.

     Viết bài này lại nhớ câu "Chú cháu mình cùng chia nhau một chút phước". Giờ thì chú đã xa Huế rồi không biết khi mô gặp lại nhưng tôi vẫn tin là sẽ lại trùng phùng thôi bởi đó là một con người của Huế. Anh và chú: Tôi gọi là “Những người con của Huế”. Bởi lẽ đó là những con người bình dị mà cao cả, nhân hậu và đầy ắp ân tình. Huế cần lắm thay những con người như thế, những tấm lòng như thế để mỗi mùa đông về Huế không còn giá buốt triền miên. Để không còn chạnh lòng khi nghe khúc hát "Xứ Huế bây chừ mùa đông chưa anh,từng con phố yêu còn vui không anh?”…

 CÔ VÀ TRÒ

      Gần ba mươi năm - thời gian trôi qua thật nhanh và thời gian cũng giúp cô trò chúng tôi nhận ra rằng có những miền kí ức để dòng đời dù có trôi về đâu vẫn in đậm dấu ấn trong tim mỗi người. Đó là một thời hoa niên tươi đẹp dưới ngôi trường Phường Đúc thân yêu

     Cô và trò - mới ngày nào trò chỉ nhỏ bằng nửa người cô vậy mà giờ đây có đứa đã cao lên hơn cô một chút rồi. Cô và trò - mới ngày nào đứng trước cô trò hay lí nhí rụt rè vì trong mắt trò cô luôn là thần tượng nay xích lại gần nhau ôn lại kỷ niệm và hát cùng nhau như những người bạn thân lâu ngày gặp lại nhau. Cô trong kí ức của trò là tà áo dài thướt tha với giọng nói dịu dàng còn trò trong mắt cô vẫn như những đứa con nhỏ cần có sự yêu thương che chở.

     Hội ngộ cùng nhau - để nhắc lại kỉ niệm ngày xưa đã khóc suốt giờ ra chơi vì không thuộc bài trong tiết dự giờ. Nhưng đó là những giọt nước mắt hối hận vì đã phụ lòng cô chứ không phải vì sợ điểm trứng ngỗng. Nhưng sau này nhắc lại cô đã nói rằng đó chỉ là một động thái giơ cao đánh khẽ của cô mà thôi. Ôi! cô của tôi - lòng cảm xúc rưng rưng khi hát bài hát "Ngày hai mươi " cô dạy ngày nào. Lũ học trò ngày xưa gọi nhau mi tau chơi banh xỉu quậy tung sân trường Phường Đúc chừ đã được gọi bằng chú, bằng dì gặp lại nhau mà vẫn cứ tưởng mình đang ở ngày hôm qua để cứ xí xọn mà không sợ bị đứa mô cặp đôi cặp đũa.

     Thời gian không chờ đợi ai cả, nhưng càng xa lại càng thấy ngày hội ngộ hôm nay đáng nhớ biết nhường nào. Để rồi phút giây chia tay lưu luyến lại cứ bảo sao thời gian trôi qua thật nhanh.

      Xin mượn lời của một bài hát thay lời kết cho những cảm xúc trào dâng : "Kỉ niệm thân yêu ơi sẽ còn nhớ mãi tiếng thầy cô, bạn bè mến thương ơi sẽ còn nhớ những lúc giận hờn…”.

 NHÀ XƯA ƠI, TA ĐÃ VỀ!



     Có những ngày bước lang thang vô định mà chẳng biết mình đi đâu về đâu. Và sau cùng, chợt nhận ra mình đang đứng ở nơi đây, nơi mà ta vẫn hay gọi là: Nhà!

     Nơi này: một thời chân sáo véo von, buồn lo không làm tâm vướng bận. Nơi này: gắn bó yêu thương, kí ức tuổi thơ thương lắm với bạn bè đồng trang lứa bao trò chơi con nít vui đùa. Nơi này: có ba mạ ta, các chị và em ta luôn chở che đùm bọc.

     Nhà xưa ơi hôm nay ta đã về rồi đây! 

     Ngõ nhà ta đó, bông hoàng hậu vẫn nở tím màu hoa đón khách quen lạ ghé thăm. Con Vàng vẫn ngoe nguẩy đuôi ào ra mừng rỡ âu yếm liếm chân ta rồi nhảy cẫng lên mà mừng rỡ, tíu tít theo sát bước chân vào nhà. Nhẹ mở cổng, chợt thấy ba lúi húi chăm sóc khóm bông trang góc nhà, sống mũi chợt nghe cay xè biết rằng người muốn giữ mãi hình ảnh đứa con gái út năm nào, phải chăng vì vậy nên những khóm bông trang hiện diện khắp nơi trong vườn nhà và luôn được ba chăm chút cẩn thận? 

     Đâu rồi căn phòng xưa một thời hay ngồi bên khung cửa sổ ngắm trăng sao rồi mơ mộng, những hôm ngập tràn hạnh phúc thêu áo gối chuẩn bị cho ngày vu quy. Đâu rồi những tấm thiệp mừng, những món quà kỉ niệm nhỏ xinh bạn bè thân yêu tặng mỗi lần sinh nhật, những bài thơ vụng về ép kèm hoa bướm, những món đồ lưu niệm mỗi lần được đi xa.

     Thời gian trôi qua đã phần nào không còn giữ được những món đồ ấy được vẹn nguyên nhưng những tiếng cười vui ngày ấy vẫn nguyên vẹn một thời trong sáng để hiện tại bồi hồi bâng khuâng! 

     Cởi giày và bước chân trần ra vườn để thịt da được chạm cùng những viên sỏi và cây cỏ trong vườn nhà, để thương lắm cây vả già nua vẫn cần mẫn cho những đứa con lúc lỉu bám đầy từ gốc lên ngọn, nhớ mệ ngoại đội nón thăm vườn chiều đông chạng vạng mưa ướt lâm thâm. Vẫn còn đây những mít, thanh trà, mãng cầu đang chờ mùa chín rộ, trước sân nhà cây hường đang hứa hẹn những đứa cháu nội cháu ngoại của ba sẽ có quà quê ngọt ngào hương vị yêu thương.

     Ồ! mi vẫn còn đây ư cây bồ kết một thời tóc xanh ta nhờ mi chăm sóc, hương dịu dàng khiến vương vấn lòng ai. 

     Chợt thèm nghe đến quay quắt tiếng ve trưa mùa hạ, trốn ngủ í ới cùng bạn bè dang nắng với những chiếc lồng bắt ve dính mủ mít đến khi bắt được lại thả ra vì hồi tâm.

     Thương tuổi thơ ngủ vùi trong đống rơm để mạ phải đi tìm trong lo âu nặng trĩu. Hái trái mít cám non chấm muối ớt để tìm lại món ăn quen thuộc ngày xưa sao nhớ thời đi học trưa về ra vườn trấn an tạm cái bao tử đang gọi réo.

     Thèm lắm cảm giác được mạ bắt cả mấy chị em nằm xếp hàng trên phản, đòn roi sắn quất ê mông đau quá mạ ơi nhưng giờ con mới hiểu rằng đòn roi ấy có là gì với những ê buốt mà cuộc đời trao tặng vốn dĩ. Những làn roi yêu thương cha mẹ ta đứt ruột để hôm nay ta nên người, chao ơi biết khi mô con mới trả hết được những yêu thương vô bờ trong làn roi ngày thơ đó, ba mạ ơi!

     Nhớ quá đi thôi... tất cả cứ ùa về , miên man...nỗi nhớ!

     Thương biết mấy cho vừa, kể hết mấy cho bưa khi từng góc nhà, từng viên sỏi đều mang trong ta những kí ức màu hồng khó quên. 
     May mắn thay, ta còn có nơi yêu thương để trở về!

 

GIẾNG CHÙA VÀ LŨ TRẺ CON LÀNG HẠ.

 

     Ngày ấy, giữa cái thời gạo châu củi quế những năm của thập niên 80 thì chuyện nước nôi cũng là một sự thiếu thốn chung mà điển hình là xóm giếng Chùa làng Hạ chúng tôi ngày ấy. Sở dĩ có tên giếng Chùa bởi giếng nằm ngay trước chùa Thiên Hoà nên không biết tự bao giờ lúc chúng tôi bé tí đã có tên gọi là giếng Chùa rồi.

     Giếng là nơi cung cấp nước cho gần ba chục nhà cả xóm trên lẫn xóm dưới. Nước giếng Chùa mát ngọt lắm so với những giếng khác trong làng nên sau này cho dù có nước máy mọi người trong xóm chúng tôi vẫn có thói quen dùng nước giếng để nấu ăn là vì vậy.

     Từ sớm tinh mơ, cả xóm đã rộn ràng tiếng gọi nhau rủ đi gánh nước. Tiếng chào hỏi, tiếng quang gánh của các chị, các dì, các chú với đôi thùng nhôm va leng keng, tiếng gàu múc nước xối xả đã tạo nên một xóm giếng Chùa chân chất mà đậm tình làng nghĩa xóm.

     Các chị các O tranh thủ những ngày héng nắng sau những ngày mưa dài giặt chiếu, giặt mền, tiếng nói chuyện cười đùa rộn rã. Những đôi má thiếu nữ ửng hồng lên trong nắng sớm ban mai khi chợt bắt gặp ánh mắt anh trai làng lén nhìn vội, giả đò vô tình múc nước đầy gàu nhưng không đổ vào thùng mình lại đổ vào cho thùng của ai kia.

     Lũ trẻ con tồng ngồng ngây thơ chưa biết thẹn thùng vô tư vừa tắm vừa té nước đùa nghịch cùng nhau, thỉnh thoảng lại bị người lớn nạt cho mấy tiếng vì làm văng nước ướt áo quần các chị.

     Đêm trăng, nam thanh nữ tú hẹn hò điểm gặp nhau cũng là giếng Chùa, những lời tình tự, những nụ hôn vừa e ấp vừa nồng nàn mà giếng Chùa đã như một chứng nhân để rồi tiếng pháo vu quy rộn rã vang lên se kết những đôi uyên ương giữa các làng về chung một mái nhà hạnh phúc.

     Cũng có những lần nắng hạn, ruộng đất nứt nẻ và giếng Chùa mặc dù sâu và rộng thế vẫn không đủ cung cấp nước cho dân làng. Thế nên cảnh "chực nước" vẫn diễn ra thường xuyên. Thường thì mọi người vào ban đêm hoặc sáng sớm là lúc ít ai gánh nước để tranh thủ múc được nước cho nhiều bởi lúc ấy nước chỉ còn một lõm nhỏ dưới lòng giếng, chúng tôi nhìn xuống vẫn thường thấy một mạch nước ngầm chảy từ sâu dưới lòng đất.

     Thiếu nước mọi sinh hoạt của mỗi nhà đều phải thật tiết kiệm nhưng với lũ trẻ con chúng tôi thì lại là những ngày thật là vui thích. Không ai bảo ai nhưng đã thành thông lệ ai bỏ thùng ra giếng trước thì người đó sẽ được múc nước trước, bởi thế cho nên chúng tôi thường được ba mạ giao cho nhiệm vụ là: "đi chực nước". Nhưng chúng tôi vào cái tuổi ăn tuổi chơi nào có chịu ngồi bó gối một chổ mà đợi đến phiên múc nước đâu, thế là chúng tôi bày ra không biết bao nhiêu là trò chơi: bịt mắt bắt dê, ô làng, năm mười chán lại banh thẻ, đá kiện thậm chí còn bày đặt bắt chước người lớn chơi xay vong xay vía, tối về ba mạ nghe kể lại bắt nằm xếp hàng trên phản quết đòn cho ê mông. Bảo: "Đã chừa chưa?" Vừa khóc, vừa mếu máo "Dạ chừa!" Nhưng rồi hôm sau lại đâu vào đấy, vẫn bày ra bao nhiêu trò nghịch ngợm thậm chí chơi đuổi nhau u đầu mẻ trán nhưng vẫn không chừa mấy trò ngây thơ.

     Cũng có lúc vì muốn thùng nhà mình mau đầy để gánh nước về mà không tránh khỏi những cãi vả tỵ nạnh nhau, nhưng rồi một bước ra ngõ lại gặp nhau, tối lửa tắt đèn cũng có lúc cần kề cận bà con xóm giếng Chùa lại chín bỏ làm mười, lại tay bắt mặt mừng mỗi lần ra đường gặp nhau, lũ trẻ con vẫn vô tư chơi đùa gọi nhau đi học í ới, anh trai làng vẫn lén gởi thư cho cô thợ làm hương, họ vẫn thầm hò hẹn và điểm hẹn vẫn là nơi quen thuộc: giếng Chùa.

     Mấy mạ mấy chị thỉnh thoảng làm bánh lọc vẫn thảo thơm đem mời hàng xóm, ba tôi vẫn ngồi hàn huyên bên tách trà trước sân cùng bác hàng xóm hiền từ. Những cô thôn nữ tóc thơm hương bồ kết vẫn rộn ràng tuốt lúa dưới vầng trăng mười sáu vằng vặc, thẹn thùng khi bắt gặp ánh mắt ai nồng nàn gởi trao.

     Vậy đó, giếng Chùa và tuổi thơ tôi chỉ mộc mạc như vậy mà luôn theo tôi trải dài và đậm sâu theo năm tháng. Để trong giấc mơ của tôi vẫn luôn là những hồi ức vẹn nguyên với giếng Chùa, với lũy tre và những đêm trăng mười sáu ngây thơ, ngọt ngào.

CÂY DÂU CỦA TÔI!

     Tuổi thơ thương nhớ của tôi hôm nay lại đón tôi trở lại chốn xưa cùng niềm vui hội ngộ trong ngày giỗ ông ngoại.

     Màu nắng hôm nay vàng hơn và cây dâu xanh của tôi vẫn như năm nào vươn những cánh lá khỏe khoắn đón tôi vui mừng, tíu tít. Ôi! Cây dâu của tôi - người bạn tuổi thơ của tôi.

     Không biết cây dâu này có tự bao giờ chỉ biết rằng khi tôi có mặt trên cõi đời này là cây dâu ấy đã có rồi. Mọi năm cứ vào khoảng tháng hai là từ thân cây bắt đầu trứt những mầm hoa rồi dần hé những chùm hoa vàng óng mượt mà rũ xuống thơm ngát át cả mùi nhang trầm của những người thợ đang làm hương cho nhà tôi.

     Tôi lại cùng lũ bạn hàng xóm bày ra trò chơi đồ hàng mà hoa dâu và những trái dâu xanh non là "nguyên liệu" chính mà chúng tôi ví von đó là những món hàng trong giỏ mạ tôi vẫn thường đi chợ về.

     Nhưng có một điều lạ lắm là nó trổ hoa nhiều và thơm là vậy nhưng đến khi trái lớn bằng hòn bi là nó rụng hêt cả và chị em nhà chúng tôi chưa bao giờ được nếm vị ngọt của những trái dâu này bao giờ. Mặc dù vậy với chị em nhà tôi nó vẫn đáng yêu lắm. Mỗi trưa hè nóng bức chúng tôi rãi chiếu hay mắc võng dưới gốc cây, những cành lá xum xuê che chở cho chúng tôi giấc ngủ trưa yên lành. Cũng có lúc những cành lá mảnh mai của cây lại đuợc mạ tôi bẻ vội làm roi phạt ê mông mỗi lần trốn ngủ sang nhà hàng xóm nghịch phá.

     Mỗi lần chơi trò trốn tìm cây lại là nơi ẩn nấp lý tưởng để đứa tìm không nhận ra và cũng là nơi ngồi tâm sự yêu thương của những chị em thợ làm hương cho nhà tôi mỗi lần có người yêu đến thăm chơi. (Gần đó bao giờ cũng có lũ trẻ nghịch ranh chúng tôi tò mò núp sau cây bồ quân rúc rích để hóng hớt chuyện của "người lớn")...

     Nhiều lắm và còn mãi những kỉ niệm in đậm trong từng kí ức của tôi mà có lẽ không nơi nào có thể khiến tôi mỗi lần nhớ về lại bồi hồi đến thế. Ôi! tuổi thơ dấu yêu của tôi bên những người hàng xóm hiền lành nhân hậu. Cám ơn hai vợ chồng cậu Lâm đã giữ cây dâu tuổi thơ vẹn nguyên cho hôm nay đứa cháu gái một thời hai nhà như một được tìm về với lời ru cánh cò ngày xưa. Cám ơn cảnh vật vẹn nguyên đã ru lại tôi giấc mơ trưa hè. Sẽ còn mãi trong tôi... thần tiên... một thuở.

THỊ ƠI THỊ RƠI BỊ BÀ...

 

     Tuổi thơ chúng tôi gắn liền với trái bồ quân, bồ kết, mít cám và chay, thị là những trái cây mà chúng tôi thường xếp vào loại hiếm lúc bấy giờ.

     Không như cây vả, cây thị không phải nhà nào cũng có mặc dù nhà tôi cũng có một cây ngay đầu ngõ. Nên những cây thị huyền thoại mà lũ trẻ con xóm giếng Chùa chúng tôi vẫn thường biết đến đó là cây thị chùa Tường Vân, cây thị dốc mụ Giành, cây thị dốc ông Quế thợ rèn, cây thị nhà ông Thức, cây thị nhà mệ Tương...

     Thị là một loài cây lâu niên thường cho trái chín vào độ tháng bảy. Trái thị lúc chín có màu vàng ươm, thị có một mùi thơm ngọt ngào, đặc biệt lúc về đêm hương thơm của thị rất quyến rũ nồng nàn. Phải chăng bởi vì thơm như vậy nên thời ấy xóm làng vẫn còn nhiều cây cối rậm rạp lắm, nên mạ vẫn thường dặn con gái đang độ tuổi cặp kê không được cầm theo trái thị bên mình vì sợ người âm sẽ theo thì đường tình duyên dễ bề trắc trở?

     Với tôi mạ nhắc mỗi lần cũng "dạ dạ”, nhưng bao giờ trong cặp đi học cũng có một vài trái thị cho thơm. Tôi đặc biệt thích nhất là thị tràm, thị tràm trái nhỏ xinh nhưng thơm lắm, hột lại rất nhỏ nên nhiều khi cầm chơi chán tôi lại vo mềm rồi ăn.

     Con nít thời ấy thiếu thốn rất nhiều nên có thể nói trái thị là một trong những loại trái cây được xếp vào hàng đặc sản của chúng tôi thời bấy giờ. Chả thế mới có những câu chuyện lũ chúng tôi vẫn thường nghịch ngợm canh me nhà hàng xóm đang ngủ trưa là chúng tôi chui hàng rào lượm trộm thị rơi và chuyện bị chó sủa đánh thức ông hàng xóm dậy doạ nạt, thậm chí rượt theo cũng là những kỉ niệm nhớ đời; để mỗi lần lũ trẻ xóm giếng chùa giờ đã ngoài bốn mươi vẫn thường nhắc lại khi có dịp hội ngộ và cười vang là vì vậy.

     "Thị ơi thị rơi bị bà Bà để bà ngửi chứ bà không ăn!" Phải chăng trái thị đã là cái hồn của tuổi thơ nên trong câu chuyện cổ tích bên cạnh bà Tiên, ông Bụt trái thị là một hình ảnh rất đỗi dịu dàng đằm thắm, nên cô Tấm hiền lành vẫn ngày ngày núp trong quả thị, chờ bà lão ra khỏi nhà lại lặng lẽ dọn nhà cửa đảm đang và sự dịu dàng ấy đã làm cho duyên chồng vợ được nối liền hạnh phúc.

     Tôi chắc chắn rằng, những ai tuổi thơ đã từng gắn bó với giếng nước cây đa sân đình, những ai đã từng lớn lên trong hoa cau hoa bưởi, mùi ngai ngái rơm khô và những trái thị tràm trong cặp thì người đó đã có một tuổi thơ trong veo đúng nghĩa để tự hào mỗi khi hồi ức quay trở về!

CÂY VẢ VƯỜN NHÀ

     Ngày xửa ngày xưa, xưa lắm và lâu lắm mà có lẽ là khi chúng tôi chưa cất tiếng khóc o oe chào đời nữa tề thì đã có cây vả này rồi, bằng chứng là mạ tôi thường hay kể: "Cái hồi tau đẻ mi ra tau hay ăn vả hầm để có sữa nhiều cho mi bú"đó thôi".

     Vườn nhà tôi nhiều cây lắm, nhưng đặc biệt là ngoài đào, ổi, thanh trà, mít thì cây vả là cây cải thiện được kinh tế ra trò nhất. Nằm chen lẫn những bụi thơm (dứa) đầy gai lá nhọn là những cây vả tán lá xum xuê che rợp mát những góc vườn rộng lớn.

     Hồi ấy chưa có phong trào dùng bì ni lông như bây giờ nên mấy mệ mấy bà hay đi chợ thường gói hàng vào những ngọn lá vả. "Nắm bắt thị trường" ngay, vậy là chúng tôi hễ thấy cây nào lá nhiều và xanh tốt là chúng tôi thường hái và bán cho o buôn hàng vặt cuối xóm bó thành từng bó và số tiền ấy thường chúng tôi dành để mua thêm sách vở áo quần để đi học.

      Cây nào trái cũng luôn lúc lỉu xanh cả từ dưới gốc lên trên ngọn. Nhớ mệ tôi trời mưa đội nón ra vườn hái một rổ vả vào và mua thêm ít xương heo hầm ăn cả ngày, nhớ lại là thèm chảy nước miếng nhưng cái món mà tôi mê nhứt là món vả trộn tôm thịt. Vả non luộc xong xắt mỏng vắt hết nước rồi trộn với tôm thịt, rắc lên ít mè, đậu phụng rang và rau răm lại có thêm mấy cái bánh tráng là thành món khoái khẩu mà mùa hè hay mùa mưa cũng luôn làm cái bao tử của chúng tôi cồn cào mỗi lần nhớ đến.

      Nhiều món từ vả như gỏi vả, vả hầm giò heo cho người sinh cần sữa, nhưng cái món mà chúng tôi nhớ đời nhứt là mỗi lần đi học về đói bụng mạ chưa kịp nấu cơm là chúng tôi lại chạy ra gốc vả và ... "tham quan" xem có trái nào chín không, nó ngon đáo để lắm các bạn nhé và cũng hiếm lắm vì thông thường những quả già thường rụng rồi mô còn đậu lại được trên cành nữa. Nó có vị ngọt thanh, màu đỏ khi chín mà hồi nớ thiếu thốn có cái ni mà trấn an cái bao tử là coi như cuộc đời lên tiên rồi.

     Lại nhớ đến cái món vả chấm ruốc, chấm muối ớt mà mỗi lần đi học chúng tôi thường bới theo một gói lén lút cất vào hộc bàn rồi chuyền tay nhau ăn để lũ bạn là dân Cầu Lòn, Lịch Đợi vẫn hay trêu chọc chúng tôi là dân "mọi rẫy" Bàu Vá phải nhìn mà nuốt nướng miếng ghanh tỵ (nhà chúng nó toàn là nhà mặt phố làm chi có cây vả như ri, he he).

      Sau này chị em chúng tôi dần rời xa mái nhà xưa để đi lấy chồng nhưng mỗi lần lên thăm nhà ngoại thì công việc không thể thiếu của chúng tôi là chạy ra thăm cây vả, dù bây giờ ba mạ tôi trồng hoa quanh nhà rất nhiều nhưng nơi quyến rũ nhất mà chúng tôi muốn đứng chụp hình bao giờ cây vả cũng là nơi ưu ái nhất!

     Phải chăng nó là một minh chứng sống, là nơi cất giấu bao kỉ niệm tươi đẹp thuở ấu thơ của chúng tôi nên chị em tôi luôn tìm về với mái nhà xưa và cây vả đã là một phần máu thịt của chúng tôi tự thuở nào rồi?

MONG DÃ VIÊN LÀ CHIẾC CẦU BÌNH YÊN

     Hàng ngày qua lại trên cây cầu này từ lúc nó mới hoàn thành mình đã chứng kiến không biết bao nhiêu vụ nhảy cầu tự vẫn, nhiều quá, nhiều đến nỗi giờ mình không nhớ là bao nhiêu vụ nữa.

     Hôm nay cũng vậy, nhìn cảnh người thân trên cầu gào khóc mình không sao cầm nổi nước mắt. Đành rằng người đi cũng đã đi rồi nhưng thật xót xa cho người ở lại. Tóc bạc tiễn kẻ đầu xanh, vợ khóc chồng, con khóc cha… cảnh ngộ nào cuối cùng cũng đẫm nỗi đau chất ngất.

     Dừng xe lại và bỏ chút tiền vào thùng giấy người thân xin lòng thương xót để có tiền thuê thợ lặn xong mình vội vã rời đi mà lòng trĩu nặng. Trên đường đi cứ vang vẳng tiếng than khóc xé lòng. Chiếc cầu đẹp và thơ mộng là thế, đó cũng là nỗi tự hào của người dân xứ Huế đâu ai ngờ giờ đây những người tuyệt vọng muốn chấm dứt nỗi đau trần thế vô tình khoác cho nó nhiều cái tên mới: Chiếc cầu chết, chiếc cầu ma, chiếc cầu tuyệt vọng…

     Hỡi những ai đã chứng kiến cảnh ngộ hôm nay hoặc những ai đang mang trong lòng nỗi tuyệt vọng chán chường xin hãy nhìn những giọt nước mắt, những khuôn mặt thất thần đau khổ của người thân để nếu có lúc nào đó trong cơn tuyệt vọng chán chường hãy dừng lại ý định tìm đến con đường chấm dứt cuộc sống.

     Và xin hãy để cho chiếc cầu này là nhịp cầu bình yên và nước dòng Hương muôn đời bình lặng với những gì vốn dĩ của nó. Xin thắp nén nhang cho người quá cố và nguyện cầu bằng an cho tất cả chúng ta!

CHO NHAU NỤ CƯỜI

     Vừa nhận được tin một người bà con từ giã cõi đời. Mạ cứ quay quắt tiếc nuối bảo rằng mấy hôm nay bận rộn không ghé thăm được.

     Ừ thì sanh ly tử biệt, cuộc đời là sắc sắc không không, gói gọn trong hai tiếng vô thường. Dẫu biết rằng vạn vật trên thế gian không thể nào tránh khỏi quy luật ấy, nhưng sao mỗi lần nghe tin một người ra đi về cõi vĩnh hằng lại không tránh khỏi những ưu tư trong dạ.

      Mới chào nhau đó thoáng chốc đã nghe tin bạn đi mãi mãi, mới đùa giỡn nhau đó hôm sau nghe tin họ đã ra đi về cõi vĩnh hằng rồi! Ôi, hoa nở rồi hoa tàn, cuộc chơi ở nhân gian tựa áng phù vân, thế mà tại sao con người lại quay cuồng giẫm đạp lên nhau, tranh giành nhau từng milimet, nói xấu, dựng chuyện, gắp lửa bỏ tay người, nhiều lúc ra đường muốn vượt qua mặt người ta chỉ để đến sớm hơn một vài giây. Để làm gì nhỉ! Hỡi ôi!

      Rồi nào ai tránh khỏi cửa ải nhân gian, rồi nào ai lúc nằm xuống chẳng ra đi với hai bàn tay trắng cùng chén cơm với cái trứng vịt luộc như nhau. Thôi thì tôi ơi, biết đấy để mà quý từng thời khắc cuộc đời đã cho ta hai chữ "làm người ".

     Hãy yêu thương và mở lòng dẫu biết rằng sẽ còn nhiều yêu ghét cho ta. Và, xin hãy cho tôi hoặc nhận từ tôi một nụ cười vì biết đâu tôi - hoặc bạn có thể từ biệt nhau mà chưa kịp nói câu từ giã.

NÓ: LÀ TÔI!

      Mỗi ngày như mọi ngày, nó dậy sớm để dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị cho chồng con những thứ mà theo nó nghĩ cần thiết cho sức khoẻ của cả nhà.

     Nó vắt cam, nó khuấy sữa để sẵn vào tủ lạnh - những thứ mà theo suy nghĩ đơn giản của nó là bù đắp năng lượng và bù đắp sự trống vắng khi nó đi làm từ sáng đến tối mịt mới về nhà.

     Nó dặn chồng cái này, dặn con cái kia rồi nó vội vã mang cặp lồng mua cháo cho mẹ chồng đã già yếu. Xong đâu đấy nó mới vội vã lo cho công việc của nó.

     Nơi làm việc của nó không có phòng máy lạnh, nó vừa kiêm chức giám đốc lẫn thủ quỹ lẫn nhân công. Công việc đòi hỏi nó không thể mặc những bộ áo váy công sở thanh lịch sang trọng, không thể mặc chiếc áo dài thướt tha duyên dáng mặc dù hàng ngày nó tiếp xúc dễ có đến cả trăm lượt người. Nhiều lúc nhìn các bạn xưa học cùng lớp bây giờ đã là những giáo viên, hoặc chí ít là những công việc nhàn nhã nơi công sở vẫn thường phàn nàn: "Xếp tui (trường tui, cơ quan tui...) bắt phải mặc áo dài mệt ơi là mệt! "Nghe vậy, nó lại thầm ao ước: "Giá như!"...

     Ngày xưa nó học không đến nỗi nào nhưng dường như cái số phận sinh ra bắt nó phải ngồi bó gối nơi này nên vì cuộc mưu sinh mà nó đành bằng lòng với hiện tại. Mà nó bằng lòng thật, thậm chí nó tự hào là đằng khác, cho nên nếu ai hỏi nó làm công việc gì nó đều nói mình làm công việc đó. Nó vẫn tự nhủ nó làm ra đồng tiền bằng sức lao động chân chính, nó không lừa gạt, không cướp giật ai thì tại sao lại ngại khi nói về công việc của mình. 

     Hàng ngày nó vẫn ngồi đó, dưới gốc cây bàng im mát làm việc không ngơi nghỉ. Mặc bộ quần áo giản dị, đội cái nón lá ấy vậy mà thỉnh thoảng nó cũng được khách khen là có duyên mới tài chơ (cái ni nó kể thiệt tình á). Khách khen nó bán buôn ăn nói nhẹ nhàng, dễ thương nì, bán có tâm nì, thiệt thà nì. Không biết thiệt không chơ nghe khen nó cũng mát cái bụng mà bao nhiêu mệt nhọc như tan biến hết luôn.

     Đôi bàn tay nó ngày xưa thon thả là thế, giờ có lúc nó tự xoa tay mình mà ngậm ngùi vì đã xuất hiện những vết chai. Mặc kệ thôi, giờ quan tâm nhan sắc để làm gì. Nó dần xa vắng những lần gặp gỡ bạn bè, những cuộc vui giờ vắng nó, đôi lúc bạn bè vẫn yêu thương gọi rủ nhưng thời gian của nó không có nhiều để cho phép mình quá thảnh thơi.

     Hiện tại này, nó duy chỉ có thói quen cầm máy điện thoại bấm bấm là nó không thể từ bỏ được. Nó muốn viết, thích viết, nên cứ hở ra rảnh là nó bấm để viết trên điện thoại. Nó muốn viết những cảm xúc, những câu chuyện, những điều nó cảm nhận được hàng ngày. Nó viết chỉ là vì muốn được viết, như sở thích ngày xưa nó vốn yêu thích môn văn. Nó viết không vì một mưu cầu cao xa là trở thành một nhà văn, nó chỉ muốn viết để thỏa những nỗi lòng của mình, viết ra rồi nó thấy tâm hồn bỗng nhẹ nhàng thư thái lắm.

     Ừ! Mà nó còn có niềm vui nào nữa đâu ngoài làm bạn cùng những trang viết của mình. Buồn vui chi cũng ở đó, gởi gắm ở đó tất cả những tâm sự của mình.

     Nó say mê viết đến nỗi có lần mải viết, lúc ngẩng lên thì đã bị một nhóm trật tự của phường nhảy xuống hốt hết hàng của nó đưa lên xe với lý do nó vi phạm bán buôn lấn chiếm vỉa hè. Lần đó nó khóc sưng hết cả mắt vì số hàng ấy tính ra với thu nhập của nó hàng ngày thì nó phải ngồi bán mất cả tuần mới lại vốn. Biết răng được chừ! Nó chép miệng rồi lại tự nuốt nước mắt mà an ủi mình bằng câu nói muôn thuở ấy. Để rồi nó lại tiếp tục với công việc hàng ngày của mình dưới gốc cây bàng sát vỉa hè.

     Cứ thế, mặc cho kẻ qua người lại - giữa chốn người lao xao, nó vẫn tay làm, tay bấm. Vì với nó viết đã là một niềm vui không thể thiếu, như hơi thở, như một phần cơ thể khó có thể tách rời. Và trên hết là: "Nó còn có niềm vui nào nữa đâu".

     Nó: Là Tôi! 

DẤU ẤN CÔN ĐẢO
Bút ký

 

     Lâu nay tôi chỉ biết đến Côn Đảo qua đài báo sách vở và nhất là biết được miền đất ấy qua bài thơ "Chị Võ Thị Sáu" hồi học lớp hai trường làng. Lòng thầm ao ước một lần đến đây để được dâng hương lên các anh hùng liệt sĩ đã nằm xuống và viếng nơi an nghỉ cuối cùng của "người con gái trẻ măng" Võ Thị Sáu. Tâm nguyện ấy thôi thúc mãi trong tôi và hôm nay...

     Vừa đáp xuống sân bay, Côn Đảo đón tôi bằng một cơn mưa chiều như muốn gột rửa tâm trạng không vui của tôi - đó cũng là một trong những lý do khiến tôi quyết định đi xa một mình lần đầu tiên trong đời và miền đất này là sự lựa chọn trong hành trình của tôi lần này! Xe đưa tôi qua những triền dốc dịu mát, thỉnh thoảng một vài bụi hoa giấy và những đốm hoa phượng đỏ ven đường làm sáng bừng lên một gam màu ấm áp xen lẫn những tàn lá cây ướt mưa xanh mướt.

    Một cảm giác yên ả trong lòng! Đã có chủ đích từ trước nên sau khi làm thủ tục ở khách sạn xong, điều đầu tiên tôi muốn làm ngay khi vừa đặt chân lên Côn Đảo là đến viếng nghĩa trang Hàng Dương, và thật may mắn cho tôi là vừa kịp làm quen với một đoàn khách và họ đã rủ tôi cùng đi dâng hương các anh hùng liệt sĩ.

     Đang lạ nước lạ cái, tôi vui mừng nhận lời ngay, và thật bất ngờ khi lần đầu tiên tôi chứng kiến lòng thành tâm của người dân địa phương và những du khách khi đến đây. Hương hoa nhang đèn là những phẩm vật dường như phổ biến nhất được bán ở vùng đảo này, và nhất là những loài hoa màu trắng: cúc trắng, hồng trắng, huệ trắng, sen trắng..., hầu như là màu chủ đạo ở đây. Lễ viếng nghĩa trang Hàng Dương hoạt động cả ngày nhưng giờ cao điểm nhất đó là quãng thời gian từ 11 giờ đêm trở lên. Người dân quan niệm càng về khuya sự giao thoa giữa hai cực âm dương càng gần nên tin vào điều tâm linh ấy, và dòng người đến dâng hương càng về khuya càng đông cũng là vì vậy!

     Không ai bảo ai, lúc đến đây mọi người đều trang phục chỉnh tề và sửa soạn phẩm vật một cách tôn nghiêm trật tự. Trong mùi nhang trầm nghi ngút khói làm mờ ảo cả một vùng đất rộng lớn, dòng người đến viếng ai cũng hiện rõ sự thành tâm trên từng nét mặt.

     Thành kính dâng hương lên các anh hùng liệt sĩ xong, tôi đến viếng mồ cô Sáu, thêm một điều bất ngờ mà nếu chưa đặt chân đến có lẽ tôi cũng chưa bao giờ tưởng tượng ra: Nằm trong khuôn viên nghĩa trang Hàng Dương là mồ cô Võ Thị Sáu khói nhang và phẩm vật chen kín mọi nơi trên ngôi mộ cô.

      Những lẵng hoa (nhiều nhất vẫn là màu trắng) hòa quyện mùi nhang trầm toả hương ngào ngạt càng khiến sự kính cẩn trong mỗi người càng dâng cao. Tiếng nguyện cầu, tiếng tụng kinh hòa vào dòng người mỗi lúc mỗi đông thêm.

     Hôm nay tôi rất vinh hạnh được gặp gỡ một cựu chiến binh, một cựu tù nhân nhà tù Côn Đảo. Và thật bất ngờ khiến bao trái tim dâng niềm xúc động khi bác ấy sau phút thành tâm khấn nguyện đã trích đọc một đoạn thơ ca ngợi sự hy sinh anh dũng của người nữ anh hùng ấy, không gian như chìm đi, trầm mặc trong niềm tiếc thương vô hạn và đâu đây đã có người sụt sịt khóc với niềm cảm thương, trong đó có cả tôi! Bài thơ này sau đó tôi mới biết có tựa đề “Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo” của nhà thơ Phùng Quán. Cuối buổi dâng hương, tôi vinh hạnh được bác ấy hứa hẹn sẽ cho tôi tháp tùng trong chuyến đi ngày mai: thăm những nhà tù đã viết lên trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam ở Côn Đảo.

     Vậy là chuyến đi tìm lịch sử của tôi đã gặp những sự may mắn đầu tiên, tiếp đến những cơ duyên gặp gỡ khiến tôi thật sự tin rằng có lẽ hương hồn của cô Sáu đã hiển linh chứng giám tấm lòng thành của tôi mà cho tôi nhận được những niềm vui khi vừa đặt những bước chân còn bỡ ngỡ trên hòn đảo lịch sử này.

     Khép lại ngày đầu tiên trên Côn Đảo, tôi lang thang khắp các con đường trải nghiệm những điều thú vị mình cảm nhận được và cuối cùng dừng chân trên bờ biển vắng đón nhận sự dịu dàng bình yên của Côn Đảo về đêm.

 

GẶP NGƯỜI CỰU TÙ CÔN ĐẢO

    Vầng trán rộng cương trực, mái tóc hoa râm, giọng nói hào sảng và chiếc miệng cười đôn hậu, ấy là những gì mới thoạt đầu làm tôi chú ý về bác ấy.

    Vâng, tôi đang muốn nói về người cựu tù nhân Côn Đảo mà tôi có được cơ duyên gặp gỡ và kết giao mối thâm tình cùng bác ấy trong chuyến thăm Côn Đảo vừa qua.

     Hôm ấy, tôi đến nghĩa trang Hàng Dương để viếng mồ các anh hùng liệt sĩ và cô Võ Thị Sáu. Đêm đã về khuya, trong dòng người đi viếng rất đông, tôi đặc biệt chú ý đến bác ấy với dáng đi nhanh nhẹn, ánh mắt sáng tinh anh và thái độ trang nghiêm khi bác ấy dâng hương lên mộ cô Sáu.

     Trong không gian huyền hoặc của nhang trầm mờ ảo, bất chợt giữa những tiếng lâm râm khấn nguyện, bác ấy đọc một bài thơ ca ngợi sự hy sinh anh dũng của cô Sáu. Tất cả mọi người lúc đó có cả tôi chợt dâng lên một niềm xúc động của sự tiếc thương lẫn niềm tự hào dân tộc.

      Cơ duyên để tôi và bác ấy đã gặp gỡ và quen nhau trong một không gian như vậy. Khi biết tôi một mình đến Côn Đảo, bác ấy đã thân ái cho tôi tháp tùng trong những ngày hai bác cháu lưu trú tại đây. Qua những câu chuyện, tôi được biết bác ấy đã từng là một cựu tù nhân Côn Đảo.

     Bác ấy cho biết từ khi đất nước hòa bình bác ấy đã ra thăm Côn Đảo rất nhiều lần, bác ấy tâm sự dường như hòn đảo xinh đẹp và hiền hoà này bác đã xem đó là quê hương thứ hai của mình, nên khi có dịp bác đều chọn Côn Đảo là nơi bác muốn đến.

     Quả thật vậy, trong những lần cùng bác ấy đến thăm những di tích ở đây tôi đều thấy rất rõ một điều là bác ấy luôn nhận được một sự kính trọng và tiếp đón rất ân cần. Có lẽ những cán bộ, nhân viên ở đây không còn xa lạ gì với người cựu tù nhân đáng kính này nữa.

     Vừa xem, bác ấy vừa giải thích những chứng tích, những hình ảnh, những hiện vật được trưng bày. Có những lúc bác ấy dừng lại thật lâu trước một vài hình ảnh, chắc những hồi ức xưa trở về nên bác ấy dâng niềm xúc động chăng?

     Tôi thật sự thấy mình thật diễm phúc và may mắn khi được theo bác, và quả thật kiến thức, sự hiểu biết của bác về những ngày tranh đấu, về những sự đàn áp tàn bạo trong chốn ngục tù có lẽ không thua kém cô thuyết minh bảo tàng. Điều ấy chẳng có gì phải ngạc nhiên bởi vì bác ấy là một nhân chứng sống, đã từng chịu cảnh tù đày tại đây. Do vậy, trong những lời kể của bác ấy những trang lịch sử hào hùng như bừng sống lại.

     Theo lời kể của bác tôi tưởng tượng hình ảnh những nữ tù ùa ra lượm lá bàng, vừa nhặt vừa hát. Dường như giữa ranh giới của sự sống và cái chết mong manh không báo trước ấy, không thể huỷ diệt sự lạc quan, nét yêu đời hồn nhiên của các nữ tù. Vì vậy, hình ảnh những nữ tù lượm lá bàng đối phó bọn cai ngục được bác ấy ví như đàn chim sáo tung tăng. Dừng lại thật lâu nơi khu vực phòng giam, bác ấy không ngăn niềm xúc động khi giọng bác trầm xuống, bác chỉ cho tôi nơi ngày xưa bác đã từng bị giam giữ ở đây, bác kể và chỉ tỉ mỉ từng chi tiết, từng đồ vật, lòng tôi rưng rưng một niềm cảm thương và càng thêm thấm thía để biết rằng hai chữ "Tự do" quý báu đến nhường nào.

     Tiếp theo những ngày đó, hai bác cháu chúng tôi đã cùng nhau đến rất nhiều những địa danh, những chứng tích mà bất cứ nơi nào tôi cũng đều nhận thấy bác rất thông thuộc, và điều tôi thật sự cảm mến ở bác ấy đó là một tấm lòng rất nhân hậu, sự cởi mở hồn nhiên luôn đồng hành với khí phách của một người anh hùng đã khiến cho tôi thật sự quý mến lẫn khâm phục.

     Tuy tuổi đã cao, nhưng sự nhanh nhẹn, tinh thần minh mẫn luôn lạc quan yêu đời của bác đã khiến tôi dường như quên bẵng đi nỗi buồn tôi mang từ Huế vào hòn đảo du lịch tâm linh này. Còn một đêm nay nữa thôi tôi được cùng bác lang thang trên Côn Đảo, Huế đang chờ tôi với những gì êm đềm trầm mặc vốn dĩ. Tôi cùng bác đi dạo trên bờ biển dịu êm, bác chụp cho tôi vài tấm hình lưu niệm, tôi luyến lưu bịn rịn và hai bác cháu cùng hẹn sẽ có ngày gặp lại nhau nơi này vào một ngày không xa. Tôi vốn mít ướt nên khóc sụt sịt, như một người cha, bác an ủi tôi và hứa sẽ có một lần ghé thăm Huế, mảnh đất đang chờ đợi tôi trở về.

     Tạm biệt Côn Đảo, tạm biệt những chứng tích anh hùng, tạm biệt người cựu chiến binh đáng kính, tôi mong sẽ có nhiều dịp để tôi còn được gặp bác. Có lẽ trong kho tàng kí ức một thời hào hùng của bác sẽ vẫn còn những câu chuyện mà bác ấy vẫn chưa kịp kể cho tôi nghe!

 

NƠI LƯU GIỮ QUÁ KHỨ

HÀO HÙNG VÀ THƯƠNG ĐAU!

     Vâng, điều tôi muốn nói đến ở đây đó là Bảo tàng Côn Đảo - nơi lưu giữ những gì chân thật nhất, sống động nhất những hình ảnh của quá khứ đau thương tàn khốc mà những người tù yêu nước đã trải qua trong hai cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ. Như đã nói ở bài “Dấu ấn Côn Đảo”, hôm nay tôi theo chân người cựu tù ngày xưa để thăm Bảo tàng Côn Đảo trong một sáng ban mai trong lành.

     Nhận ra tù nhân đã từng ghé thăm nhiều lần nên cô nhân viên kiểm soát vé chào hỏi chúng tôi với thái độ rất ân cần lễ phép. Cô còn nhiệt tình thông báo với Ban Giám đốc bảo tàng sự có mặt của chúng tôi và tất nhiên dù chúng tôi ngỏ ý muốn mua vé vào cổng theo thông lệ họ vẫn trân trọng mời chúng tôi vào tham quan miễn phí.

     Một cảm giác lành lạnh chạy dọc sống lưng theo từng bước chân tôi khi tôi lần lượt dừng lại trước mỗi hiện vật. Từng sợi xích, từng ổ khoá, từng chiếc còng đã là lời tố cáo đầu tiên tội ác mà bọn xâm lược gây ra cho những tù nhân yêu nước. Những chiếc cùm tập thể như vẫn còn dính máu những người tù, bọn lính cai ngục đã cùm chân những người lính cộng sản chung vào một cây sắt và xiết chặt lại với nhau để khó bề vượt ngục.

     Sự tàn nhẫn của chúng còn thể hiện qua nhiều hình thức tra tấn dã man: bắt lao động khổ sai, vắt kiệt sức lực tù nhân bằng cách chỉ cho ăn ít ỏi, không có sức lực để làm việc thì chúng đánh đập dã man, làm cũng chết mà không làm cũng chết. Với phụ nữ, thì ngoài những hành động đê hèn, đầy thú tính, chúng còn dùng những nhục hình tàn khốc như cắt tai, xẻo vú, lấy dùi nung lửa, lấy kim châm vào da thịt... Nỗi đau tiếp nối những nỗi đau, người tù ai cũng như những bộ xương khô còm cõi, nằm la liệt trong từng gian phòng thấm đẫm máu và sự chết chóc hờn căm.  

      Nhưng không lùi bước trước những tội ác dã man, người tù lấy máu mình viết những câu khẩu hiệu yêu nước: "Máu ta quý cả hơn vàng, Tổ quốc cần đến sẵn sàng ta dâng!"

     Trong một tư liệu tại bảo tàng, tôi xúc động khi đọc dòng ghi chú: “Tháng 11 năm 1934 Chi bộ đặc biệt quyết định tổ chức một chuyến vượt ngục chu đáo đưa đồng chí Ngô Gia Tự cùng một số cán bộ xuất sắc về hoạt động, bác Tôn Đức Thắng cùng một số đồng chí chuẩn bị tất cả thật chu đáo, chọn những tay thợ lành nghề, đóng những chiếc thuyền thúng rộng rãi và chắc chắn. Gió chướng thổi sóng to, Ngô Gia Tự, Tô Chấn, Lê Quang Sung, Nguyễn Văn Hanh, Nguyễn Văn Ó cùng một số người được chỉ định , lặng lẽ rời kíp khổ sai, khiêng thuyền hạ thuỷ. CHUYẾN ĐI ẤY KHÔNG AI TRỞ VỀ!”

      Đớn đau không? Có những em bé vừa lọt lòng mẹ, còn chưa tận hưởng cuộc sống thần tiên của sự tự do đã theo chân mẹ sống cuộc sống lao tù. Chúng đã cướp mất của em bầu trời xanh trong veo, thay vào đó là bốn bức tường xi măng lạnh lẽo, trên cao là những sợi dây thép gai chằng chịt và những miếng mảnh chai sắc nhọn cùng sự tra tấn nhục hình giành cho người mẹ trước ánh mắt ngây thơ, tội nghiệp của em. Bé thơ không có được bầu sữa đầy đủ dưỡng chất từ người mẹ gầy còm thiếu cơm, thiếu rau, thiếu nước… Tim tôi chợt thắt lại như nghe đâu đây văng vẳng tiếng khóc ngằn ngặt thiếu sữa của em, tiếng rên xiết đau đớn của những người tù cùng khổ, của máu và nước mắt chan hoà.

     Trong một cuốn sổ tử ghi ngày giờ xử bắn các tù nhân, trong đó có tên chị Võ Thị Sáu nay được đặt trang trọng trong một chiếc hộp kính hình vuông, ngoài ra còn có rất nhiều những hình ảnh, tư liệu quý về nhân thân của các bậc anh hùng cứu quốc như Phan Chu Trinh, Lê Hồng Phong cùng rất nhiều bút tích của những bậc tài danh yêu nước.

     Nhưng! Vượt qua những đớn đau tinh thần và thể xác, những người tù yêu nước vẫn giữ vững lý tưởng của mình, họ viết những câu khẩu hiệu chống đối sự đàn áp tàn bạo của lính cai ngục, bằng sự mưu trí họ vẫn chuyền cho nhau những ám hiệu, những thông tin liên lạc quan trọng và cần kíp. Với tinh thần lạc quan quả cảm, trong màn u tối của địa ngục trần gian vẫn vang lên những tiếng hát; tiếng hát vọng từ buồng giam này lan sang buồng giam khác; tiếng hát ca ngợi độc lập tự do; tiếng hát xoa dịu, động viên nhau vượt qua gian khổ; tiếng hát sẻ chia niềm vui nỗi buồn cho nhau và tiếng hát như những cánh chim bồ câu khát khao nền hoà bình lan toả tình đồng chí, đồng bào!

     Tại ô chuyên đề báo chí, tôi vô cùng ngưỡng mộ, quý trọng những người tù trí thức vẫn nắn nót làm báo, từng trang, từng câu chữ trình bày rõ ràng và những nét chữ thật đẹp, thật bay bướm, ngay hàng thẳng lối khiến tôi không thể ngăn nổi lời thán phục trầm trồ. Sự khát khao hoà bình, tình yêu quê hương đất nước hiện rõ trong từng bài báo, bài thơ.

     Trong điều kiện thiếu thốn đến tột cùng, bằng cách nào đó những người tù chính trị vẫn tự tay làm lá cờ đỏ sao vàng với niềm tin sẽ tung bay trong ngày độc lập, các chị vẫn thêu những chiếc áo gối, làm những chiếc túi xách như muốn trao gởi tất cả những tình thương trong đó cho người mẹ già đang mỏi mòn chờ đợi, cho người yêu dấu đang hàng ngày trông ngóng ngày sum họp đoàn viên.

     Chúng tôi đi thật chậm, thật chậm qua từng kỉ vật của những người tù, qua từng bộ quần áo vá nhiều mảng chằng chịt và cuối cùng dừng lại trước một bức hình, bức hình ghi lại khoảnh khắc người mẹ già đang ôm chầm người con trai trong giây phút được trở về từ Côn Đảo, nụ cười chan hòa nước mắt tủi mừng trong ngày chiến thắng. Nụ cười tưởng chừng đã héo úa trên môi bao tháng ngày mong mỏi nay nở hoa thơm ngát giữa đời.

     Sau chuyến tham quan Bảo tàng Côn Đảo chúng tôi mang nỗi bùi ngùi pha lẫn niềm xúc động dâng cao và tôi hít một hơi thật sâu để tận hưởng sự quý giá của hai tiếng Tự Do mà Tổ Quốc đã tốn không biết bao xương máu để mang lại.

     Bất giác tôi muốn hát lên “Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay!”.

 

NIỀM VUI TRONG NGỤC TỐI!

     Trong chuyến tham quan Bảo tàng Côn Đảo tôi ấn tượng nhất là những đồ vật được chính bàn tay những tù nhân làm nên

      Phải công nhận một điều là những thứ ấy được làm rất tinh xảo, tuy còn mang những nét thô mộc rất đỗi hồn nhiên nhưng vẫn khiến tôi thầm thán phục vô cùng, nên đến bây giờ trong tôi vẫn nguyên vẹn một cảm giác xúc động mỗi lần giở lại những hình ảnh đã lưu.

     Tôi đặc biệt chú ý đến những chiếc lược nhôm được người tù chính trị làm rất sắc sảo có hình đôi chim bồ câu và tự hỏi trong điều kiện thiếu thốn và khổ sai làm thế nào mà những người tù có thể chế tác ra được những sản phẩm độc đáo như thế. Phải chăng trong chốn lao tù ngoài những lúc bị tra tấn, đánh đập và lao động khổ sai, những người tù vẫn không hề lùi bước và luôn mang trong mình một niềm tin son sắt vào ngày mai hoà bình,  nên hầu như những đồ vật ở đây hình ảnh đôi chim bồ câu thường được những tù nhân khắc hoạ vào như đôi chim bồ câu thêu bay lượn trên áo gối, đôi chim bồ câu bay trong hình vẽ của những bài thơ, đôi chim bồ câu có mặt trên chiếc túi xách xinh xắn...

      Tinh thần văn nghệ, văn chương cũng được những tù nhân thể hiện rất rõ thông qua những sản phẩm như chiếc đàn violon của bác Lê Văn Chánh được một người bạn tù khổ sai tên Thành làm ở Trại Mộc (Sở Hướng Nghiệp) tặng năm 1964; đai thắt, vòng đeo cổ, đeo tay, khuyên, nhẫn được làm từ giấy bạc, giấy thủ công... rất sắc sảo và dễ thương phục vụ cho biểu diễn văn nghệ

     Đáng chú ý là những trang viết bằng tay từ những bài báo ... Những nét chữ rất đẹp, mềm mại và ngay hàng thẳng lối. Những bài văn, bài thơ thấm đẫm những nỗi niềm mơ ước và niềm tin vào một ngày đất nước sẽ giành độc lập hoàn toàn: “...Một mùa xuân chứa đầy bao hương vị/ Một mùa xuân bất tuyệt giữa muôn xuân/ Trường đấu tranh vẫn tiến mãi không ngừng/ Dân Nam Việt vẫn anh hùng của thời đại…”

     Dừng chân thật lâu tôi lắng nghe một niềm xúc động dâng lên trong lòng khi nhìn thấy lá cờ Tổ quốc, lá cờ được Uỷ ban Quân quản Côn Đảo phát cho người tù để chào đón ngày Côn Đảo được hoàn toàn giải phóng. Lá cờ đỏ sao vàng - hồn thiêng của dân tộc Việt Nam ngày ấy giờ được xếp trang trọng bày trong tủ kính.

     Từ đây, chấm dứt những tháng ngày đau thương; bao gia đình đã được đoàn viên, những giọt nước mắt đã được lau khô, buồn tủi đã dần nguôi ngoai nhường cho hạnh phúc đang dần đơm hoa kết trái. Giờ đây những thế hệ như chúng tôi chỉ biết chiến tranh qua những tư liệu, những lời kể và những hiện vật thế hệ cha anh còn để lại.

     Hôm nay, đứng trước những hình ảnh, những bức tâm thư, những kỉ vật thấm đẫm máu và nước mắt của những người anh hùng, tôi chỉ muốn dành phút mặc niệm của riêng mình, để kính cẩn, biết ơn những người đã viết nên trang sử hào hùng của dân tộc! Cám ơn Bảo tàng Côn Đảo đã cất giữ những tư liệu, hình ảnh và hiện vật quý giá cho muôn đời sau!

 

______________

Bài viết có sử dụng một vài tư liệu trong Bảo tàng Côn Đảo.

 

CÁI GIÁ CỦA SỰ TỰ DO
SAU CÁNH CỬA SẮT
VÀ NHỮNG HÀNG RÀO THÉP GAI!

     Điểm dừng chân trong hành trình đến với Côn Đảo của tôi lần này có một cái tên thật ấn tượng. Sở dĩ tôi nói ấn tượng ở đây vì nó không phải là một danh lam thắng cảnh mỹ miều hay là những nơi vui chơi náo nhiệt tiếng tăm, mà nó có một tên gọi thoạt tiên mới nghe qua đã thấy một sự ghê rợn của sự tối tăm và nhục hình.

     Nhà tù Côn Đảo là một quần thể trại giam do người Pháp xây dựng để làm nơi giam giữ các tù nhân đặc biệt nghiêm trọng chống chế độ thực dân Pháp như tù chính trị, tử tù. Nơi đây đã từng giam giữ rất nhiều những nhà ái quốc chống lại chính phủ thuộc địa. Sau này nước Mỹ lại làm nơi giam giữ tù chính trị khi sang xâm lấn nước ta.

     Bây giờ đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập đã công nhận nhà tù Côn Đảo là một trong 23 di tích lịch sử quan trọng cần được bảo tồn và gìn giữ. Chuồng Bò và Chuồng Cọp là hai khu biệt giam nổi tiếng trong hệ thống khu nhà giam của nhà tù Côn Đảo, nó là hiện thân của địa ngục trần gian mà chỉ mới nghe tên thôi là ai nấy đều phải rợn người liên tưởng đến những nhục hình tàn khốc nhất đã từng xảy ra nơi đây.

     Hôm tôi đến những cây bàng với những tán lá xanh non mơn mởn trước khu nhà giam làm tôi có một cảm giác thanh bình hơn trước khi kịp nhìn thấy những khu nhà giam tối tăm lạnh lẽo. Mỗi phòng giam ước chừng chỉ ba mét vuông với sức chứa khoảng chừng năm người trở lên, mọi điều kiện ăn ở sinh hoạt vệ sinh tại chỗ đã nói lên sự vi phạm nhân quyền của chế độ thực dân và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa như thế nào.

     Những tù nhân bị còng chân tập thể và chịu những kiểu tra tấn tàn bạo như bắt làm lao động khổ sai, ăn uống thiếu thốn, bị đánh đập dã man và dùng những cực hình man rợ nhất. Trên mỗi khu biệt giam là những chấn song kiên cố để ngăn không cho tù nhân vượt ngục, và heo hút bao bọc những khu biệt giam đó là những bức tường cao ngất được gia cố thêm những hàng rào thép gai và những miếng mảnh chai sắc nhọn.

     Cảm giác rợn người khi tôi vào từng khu biệt giam, đâu đây như vang vẳng bên tai tôi những tiếng than khóc đau đớn, những âm thanh ai oán xen lẫn những lời tra tấn và tiếng hung khí từ đòn roi của lính cai tù. Thế mới biết những người chiến sĩ ái quốc đã có tấm lòng quả cảm kiên cường đấu tranh cho nền độc lập tự do như thế nào.

     Hôm tôi đi, tình cờ gặp hai bạn trẻ người Mỹ cũng ghé nơi đây tham quan. Ban đầu có lẽ họ yêu thích khi thấy tôi mặc trên người chiếc áo dài Việt Nam nên họ thân mật mời tôi cùng chụp chung với họ tấm hình kỉ niệm. Chừng biết cùng đi chung với tôi có người từng là tù nhân nhà tù Côn Đảo nên hai bạn trẻ ấy lấy làm thú vị lắm và rối rít bày tỏ sự yêu mến bằng cách hỏi han rất nhiều điều. Bất giác tôi thầm nghĩ họ cũng là những thế hệ đi sau như chúng tôi, lỗi ai gây ra người đó phải chịu nên sự hồn nhiên của hai bạn trẻ ấy đã để lại trong lòng tôi một sự trìu mến thật dễ thương.

     Chiến tranh đã qua, cái giá của nền hòa bình độc lập hôm nay các thế hệ đi trước đã không tiếc xương máu của mình ngã xuống, giờ đây những đau thương từ những di chứng của chiến tranh mà điển hình là chất độc màu da cam vẫn còn là một nỗi đau mà nạn nhân của chiến tranh phải nhận lấy, trong đó sự mất mát không riêng gì đất nước bị xâm lược gánh chịu mà trong lòng những người lính Pháp, lính Mỹ… liệu có được sự bình an hay mãi mãi còn đó những ăn năn ray rứt. "Lấy ân báo oán oán ấy tiêu tan" âu cũng là một nét tính cách đầy nhân văn và bác ái của người dân nước Việt mà chúng ta có quyền để tự hào.

    Rời nhà tù Côn Đảo, một lần nữa tôi ngước mặt nhìn lên bầu trời xanh bao la trên đầu, sau những dãy tường heo hút kiên cố với những hàng thép gai và những miếng mảnh chai sắc nhọn, bầy chim sẻ vẫn hồn nhiên dạo chơi trên khoảng sân vắng lặng, những nhánh lá bàng nhẹ rung trong gió như vẫy chào chúng tôi.

     Khẽ hít một hơi thật sâu để cảm nhận cảm giác tự do đang hân hoan trong lòng và tôi thầm hứa: Vâng, tôi sẽ về thăm lại nơi này để được thấy niềm tự hào đang dâng lên trong lòng, để cảm nhận được hai chữ "Tự Do" mà tôi đang được thụ hưởng nó quý giá đến mức nào. Còn đó nhà tù Côn Đảo - chứng nhân sống của lịch sử nước Việt Nam ta trong hai cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ mà chúng ta không có quyền lãng quên!

 

VIẾT VỀ "NGƯỜI CON GÁI TRẺ MĂNG" VÕ THỊ SÁU!

 

    Mười sáu tuổi - trăng tròn mộng mơ, như bao cô gái xuân thì tâm hồn Sáu dạt dào tha thiết yêu thương cuộc sống, yêu từng hòn đất lũy tre quê hương, yêu từng bông hoa dại ven đường, yêu khúc hát trên cánh đồng chiều, yêu mùa hoa lê-ki-ma tháng ba nở rộ.

     Càng tha thiết yêu quê hương, Sáu càng không thể vô tư cùng đám bạn với những buổi chiều nô đùa hồn nhiên, những đêm trăng thanh cùng hát ca trên đồng lúa chín, hàng ngày chứng kiến cảnh hà hiếp, bắt bớ của bọn giặc Mỹ và những tên tay sai ác ôn đàn áp dân lành: SÁU ĐÃ ĐI THEO CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG.

     Làm tình báo, hàng ngày Sáu đã giả vờ làm cô gái điên, đầu bù tóc rối để thoát khỏi sự nghi kị của giặc, người con gái nhỏ bé với mái tóc chấm ngang vai ấy đi qua bao chiến công thầm lặng, sự mưu trí lẫn quả cảm đã góp phần cho lý tưởng cách mạng thành công.

     Bị địch bắt, nhưng chúng không thể làm gì khi Sáu chưa đủ tuổi để hành quyết, chúng bèn giam giữ Sáu tại nhà tù Côn Đảo. Hàng ngày, bằng nhiều hình thức chúng tra tấn dã man hòng làm Sáu phải chịu quy hàng.

     Nhưng không, chúng không thể làm trái tim mười sáu khuất phục làm nô lệ bán nước, trái tim ấy vẫn sáng ngời lý tưởng cách mạng, hàng ngày, lợi dụng việc đưa cơm cho tù nhân, Sáu vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ truyền tin cho đến ngày bị tuyên án. CHÚNG QUYẾT ĐỊNH TỬ HÌNH SÁU.

     Màn đêm nhà lao Côn Đảo đêm nay bỗng bị xé tan bởi giọng hát trong trẻo của người con gái tuổi trăng tròn, giọng hát véo von ca ngợi tình yêu quê hương đất nước; giọng hát gởi gắm niềm thương về người mẹ ở nhà đang mòn mỏi trông tin con trong chốn lao tù; giọng hát nhắn nhủ đồng chí đồng đội hãy vững tin vào một ngày mai đất nước hoàn toàn giành độc lập; giọng hát tạ từ người ở lại và nhẹ nhàng thanh thoát của kẻ ra đi.

      "Hát nữa đi, hát nữa đi Sáu ơi! Có chúng tôi đang nghe và cùng hát theo với Sáu đây". Hàng loạt tù nhân trong ngục tù tăm tối đều bừng tỉnh, xiềng xích thấm đẫm máu giờ không còn là nỗi đau đớn, thay vào đó trái tim mỗi người như thắt nghẹn lại, niềm thương, nỗi đau cùng đồng chí, đồng bào chỉ còn chia sẻ cùng nhau đêm nay thôi.

     Tên cai tù gục đầu trước mũi súng, tiếng hát là bản hùng ca, có khi đó là tiếng nói oán hờn. "Ta tìm kiếm gì trong cuộc chiến tranh phi nghĩa này? Ta sẽ làm gì trước một đất nước mà từ cụ già đến em bé, từ đàn ông lẫn đàn bà, từng hòn đất luỹ tre cũng đều giương cao ngọn lửa đấu tranh," và giờ đây - mái tóc xanh chấm vai tuổi tròn trăng không chút sợ hãi mà nói thẳng vào mặt những kẻ muốn Sáu quy hàng: "Tao không sợ chết, tao chết rồi cũng sẽ có hàng ngàn người dân yêu nước như tao vùng lên"

     Mờ sáng tinh sương, chúng đem Sáu ra ngoài xử bắn. Một chiếc lá bàng trước sân nhà tù Côn Đảo khẽ chao, rơi rụng dưới đôi chân vẫn còn mang xiềng xích của Sáu. Đi giữa hàng dương, mái tóc xõa tung bay trong gió, khẽ nâng nhẹ đóa hoa, Sáu cài lên mái tóc trước những đôi mắt ngạc nhiên lẫn sợ hãi của những tên lính hành quyết. "Mẹ ơi, con vẫn nhớ lời mẹ dặn, bao giờ tóc con chấm ngang vai mẹ sẽ mua cho con chiếc khăn màu hoa lý. Nay mái tóc cùng tuổi xuân của con sắp bị bọn giặc cướp lấy và vùi chôn rồi con không còn có dịp trở về bên vòng tay mẹ để đón nhận chiếc khăn mẹ trao nữa, nhưng mẹ ơi, con xin mẹ đừng buồn, tóc con hôm nay rơi xuống để bao mái đầu xanh em con được đến trường trong hoà bình độc lập, thì mẹ ơi mẹ hãy nén đau thương mà tin rằng tóc con vẫn còn xanh mãi mẹ nghe !"

     Tiếng súng vang lên, mái tóc xanh không còn nhưng vẫn vang vọng mãi cùng ngàn sóng vỗ bên hàng dương, vọng mãi đến muôn đời sau tiếng hát của người con gái tròn trăng mười sáu.

     "Chúng đã giết Sáu rồi!" Một tiếng thét vang lên và gần hai ngàn người tù với những bộ xương gầy còm đồng loạt đứng lên, bừng tỉnh, lửa hận trong tim sôi sục, niềm tiếc thương đau đớn thấm đẫm nước mắt lan từ buồng giam này sang buồng giam khác.

     Ngoài sân, lặng lẽ những chiếc lá bàng rơi, rơi!

     Hôm nay, tôi vượt hàng ngàn cây số đến đây, bên nấm mồ người con gái kiên trung ấy. Biển Côn Đảo dịu dàng con sóng, hàng dương như thầm thì kể tôi nghe chuyện về người con gái trẻ măng. Từng dòng người xếp hàng nghiêm trang dâng hương, mộ Sáu nghi ngút khói hương và xếp đầy hoa tươi - những đoá hoa màu trắng tinh khôi trong đêm huyền hoặc chở đầy niềm tiếc thương và tưởng nhớ!

     Khói làm cay xè mắt hay những con người của hôm nay đang rưng rưng niềm xúc động trào dâng trong tâm tưởng! Trời càng về khuya, dòng người viếng mộ càng đông. Bất giác trước di ảnh tôi hát lên khe khẽ: "Thôn xóm vẫn nhắc tên người anh hùng đã chết cho mùa hoa lê-ki-ma nở…”

 

 

ĐÊM CÔN ĐẢO

 

     Sau một ngày lang thang khắp hòn đảo được mệnh danh là "Hòn đảo tâm linh" tôi vẫn chưa muốn dừng chân. Và thế là nghỉ ngơi chỉ một xíu, tôi lại bắt đôi chân của mình phải tiếp tục khám phá!

     Đêm, Côn Đảo như một nàng tiên dịu hiền với những cung đường ngát hương hoa sứ trắng. Đó là loài hoa có mặt khắp nơi từ những con đường đến bảo tàng, nhà tù với những hàng hoa nở trắng từng chùm thanh khiết.

     Không như những thành phố du lịch khác, Côn Đảo nhẹ nhàng với những quán cà phê trữ tình, những nhà hàng quán ăn đặc sản biển cũng đông khách. Có một lần mấy người cùng đoàn nêu ý kiến muốn tìm một phòng trà để cùng hát cho nhau nghe thì tuyệt nhiên thật khó như mò kim đáy bể. 

     Được biết rằng trước đó có một gia đình tại đây muốn kinh doanh ngành giải trí, họ đã mời họa sĩ từ Sài Gòn ra thiết kế mỹ thuật phòng trà và đầu tư để làm một phòng trà - vũ trường nhưng rồi thất bại và đành rút lui. Phải chăng người dân nơi đây vốn đã quen với cuộc sống êm đềm, quen với sự trầm mặc và hướng đến đời sống tâm linh đã ăn sâu vào nếp sống, nên những chốn vui chơi ồn ào không khiến họ dễ dàng thích nghi?   

     Lang thang phố xá chán, tôi dừng chân trên những hòn đá cạnh bờ biển. Sóng nhẹ nhàng xô vào những mỏm đá lô nhô lãng mạn và thêm một phát hiện thú vị của tôi: Tại sao trước một khung cảnh biển đẹp nên thơ như thế này lại vắng bóng những đôi tình nhân trẻ? Câu trả lời này đến nay vẫn còn chưa có lời giải đáp trong tôi hay do bản thân tôi vốn lãng mạn nên cứ nhìn cảnh vật đẹp là lòng lại nghĩ đến những yêu thương của con người trước thiên nhiên, trời biển giao thoa!   

     Đêm đã dần về khuya, chị quản lý khách sạn biết sáng mai tôi sẽ giã từ Côn Đảo để trở về Huế nên có nhã ý rủ tôi cùng lên nghĩa trang thắp nhang cho cô Sáu thêm một lần nữa. Dọc đường về, chúng tôi ghé vào một quán chè. Ly chè sâm bổ lượng ngọt thanh dịu mát như lời chào hỏi cởi mở của người dân miền Nam, thiệt tình, hào phóng. Chỉ còn đêm nay thôi rồi sáng sớm ngày mai tôi sẽ rời xa hòn đảo nhỏ thân thương này.  

     Những kỉ niệm cứ mãi trìu ái trong tôi, chập chờn trong giấc mơ tôi hình ảnh người con gái trẻ măng Võ Thị Sáu, những chứng tích hào hùng, hàng rào kẽm gai, những chấn song giam cầm kiên cố, những bài thơ khát vọng hoà bình, cháy bỏng tình yêu quê hương đất nước thiết tha và khoảng trời xanh trong khu nhà giam Chuồng Cọp sẽ là niềm tin trong tôi. Để tôi và những thế hệ mai này có quyền tin vào một tương lai tươi đẹp của đất nước, sẽ không còn những con sâu làm rầu nồi canh làm mất đi niềm tin yêu của dân nữa. Niềm tri ân những thế hệ đi trước sẽ là một động lực khiến tình yêu đất nước trong mỗi người dân Việt Nam ngày càng dâng cao và đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" luôn luôn được những thế hệ tiếp nối phát huy và gìn giữ.

 

NGƯỜI CÔN ĐẢO

        Chuyến đi Côn Đảo của tôi lần này có lẽ là một chuyến đi để lại nhiều ấn tượng sâu sắc nhất, mặc dù trước đó khi biết tôi có dự định sẽ ra thăm Côn Đảo bạn bè đã gợi ý cho tôi "Sao không đi Đà Lạt?”; “Sao không đi Quy Nhơn?”… 

     Và bây giờ khi đã kết thúc xong hành trình, tôi thực sự đã rất mãn nguyện và thầm cảm ơn Côn Đảo, nhất là những người dân Côn Đảo nhiệt tình và nhân hậu tôi đã có dịp tiếp xúc trong thời gian lưu lại nơi đây. 

     Đầu tiên người mà tôi muốn nói đến là chị M – người quản lý của một khách sạn khang trang và lịch sự mà tôi đã từng lưu trú. Trước đó, trong lúc liên hệ đặt phòng khi biết tâm nguyện muốn ra Côn Đảo để viếng mộ chị Võ Thị Sáu của tôi, chị đã nhiệt tình cho xe đến tận sân bay Cỏ Ống để đón tôi, và điều khiến tôi cảm động nhất đó là lúc đến khách sạn đã hơn hai giờ chiều, nhưng chị vẫn đợi tôi về để chị em chúng tôi có một bữa cơm thân mật và ấm cúng cùng nhau trong khi chị rất bận rộn với công việc của mình.   

     Khuya hôm sau, mặc dù trước đó biết tôi đã cùng đoàn khách đi viếng mộ chị Sáu rồi nhưng chị vẫn gọi tôi thức dậy để cùng đi, lúc đó đã gần 11 giờ đêm. Người Huế chúng tôi có tật hay ngủ sớm nên lúc tôi đang ngủ thì tiếng chuông vang và tôi thật ngạc nhiên lẫn cảm động vì tuy chúng tôi mới quen nhưng chị rất thân tình và cởi mở.   

     Đương nhiên tôi tích cực nhận lời liền vì lên thăm mộ chị Sáu là niềm mong mỏi của tôi và vì chị khiến tôi thấy yêu mến. Xuống phòng lễ tân đã thấy chị sửa soạn đầy đủ phẩm vật, chị chuẩn bị từng thứ bằng một thái độ rất trang nghiêm, tâm thành, chu đáo.    

     Chúng tôi nhanh chóng đến nghĩa trang Hàng Dương trong đêm và đúng như lời chị nói: “Đêm càng về khuya dòng người viếng mộ chị Sáu càng đông”. Chúng tôi cùng thắp nhang lên mộ chị Sáu và không quên thắp nhang bên những ngôi mộ liệt sĩ chung quanh.   

     Lúc ra về, dọc đường chị tâm sự, chị đã tìm được một nửa của mình. Anh ấy và chị hiện đang trong giai đoạn tìm hiểu nhau và qua giọng nói, ánh mắt chị tôi thấy ngời lên một niềm hạnh phúc ngập tràn. Tự nhiên tôi thấy lòng mình cũng vui cùng niềm vui của chị. Chị nhân hậu và chân tình, tuổi đã qua bốn mươi nhưng vẫn chưa tìm được ý trung nhân, nay thấy chị tìm được người yêu luôn quan tâm chăm sóc tận tình, tôi mừng cho chị lắm. Tôi chợt nghĩ phải chăng chính sự thành tâm với hương hồn chị Sáu mà chị được phù hộ chăng, không rõ nhưng tôi nghĩ chị xứng đáng có được hạnh phúc ấy!  

     Người thứ hai tôi muốn nói đến đó là anh T. Anh hiện nay là hiệu phó của một ngôi trường nơi Côn Đảo. Thật ra anh là người gốc Huế nhưng ra Côn Đảo công tác đã lâu nên anh tâm sự rằng Côn Đảo như là quê hương thứ hai của anh.    

     Một khám phá thú vị khi tôi hỏi vợ con anh ra sao rồi, anh nói tỉnh bơ: "Vào đất rồi"! Tôi ngạc nhiên thì anh giải thích "vào đất", đó là từ người dân nơi đây thường chỉ những người từ Côn Đảo vào đất liền có công chuyện hay để sinh sống, thì ra là vậy, như vậy là tôi lại được biết thêm từ ngữ thú vị của người Côn Đảo mà nếu chưa đi có lẽ tôi sẽ không biết đến từ này.    

     Còn nhiều lắm những người dân Côn Đảo tôi đã gặp. Từ cô nhân viên kiểm soát vé thân thiện đến các anh, chị trong ban giám đốc bảo tàng; từ chị bán cơm tấm niềm nỡ thích đọc thơ, ca dao tới chị bán chè sâm bổ lượng hiếu khách hẹn gặp lại tôi với ly chè ngọt thanh dịu mát… 

     Trong những ngày ở lại Côn Đảo, tôi cứ có cảm tưởng như đang sống ở nhà mình bởi những sự quan tâm của những con người nơi đây (có lẽ họ cảm tình với tôi phần nào vì họ hiểu tôi đã vượt một chặng đường quá dài để đến với những chứng tích lịch sử và tri ân những anh hùng ngã xuống chăng?)   

     Rời Côn Đảo trong một sớm mai nhưng lòng tôi vẫn còn nhiều luyến lưu và áy náy. Áy náy vì không kịp gặp lại chị M để tạm biệt mặc dù đêm trước chúng tôi đã chào nhau khi tôi thanh toán chi phí khách sạn. Nhưng tôi tin những con người hiền lành chơn chất nơi đây, những kỉ niệm nơi đây sẽ tạo duyên để chúng tôi lại có những lần hạnh ngộ cùng nhau trong cuộc đời.    

     Cám ơn Côn Đảo, cám ơn những người bạn, cám ơn biển đêm Côn Đảo ngọt ngào, và cám ơn những cơ duyên để tôi có một chuyến đi mang đầy ý nghĩa, để tôi sẽ nhớ hoài không bao giờ cho phép mình được lãng quên.   

     "Vào đất", về với Huế, còn mãi trong tôi cảm giác tự hào được hát ca Huế trên đất Côn Đảo và ca khúc "Biết ơn chị Võ Thị Sáu" của nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn một chiều tôi hát ở nhà lưu niệm Võ Thị Sáu. Tôi sẽ mang theo những khoảnh khắc đẹp, những kỷ niệm tuyệt vời như là một nhịp cầu nối hai bờ Trung Nam, đất liền và biển đảo. Với tôi, nơi nào cũng là quê hương của mình!

     Và Côn Đảo đang có một phần trong tâm linh và huyết quản tôi!

 QUÀ TẶNG CÔN ĐẢO

     Sau những ngày lang thang khám phá những địa danh, di tích lịch sử gắn liền với hòn đảo du lịch nghỉ dưỡng và tâm linh mang tên Côn Đảo, tôi muốn mang về cho người thân của mình những món quà thật đặc biệt và ý nghĩa.

     Dạo quanh một vòng Côn Đảo, cũng không khó lắm cho tôi, vì những đặc sản của Côn Đảo ngày nay rất phong phú và đa dạng nhiều chủng loại mặt hàng. Đầu tiên phải kể đến đó là những món hải sản tươi ngon: các loài ốc biển như ốc đá, ốc bàn tay, ốc ngọt, ốc vú nàng... hay mắm hàu, mắm nhum..; các loại cá như cá thu một nắng, cá sụn sịn, mực một nắng, là những loài hải sản ngon quý hiếm thường dễ làm say lòng cho những người sành ăn nhất.

     Nếu bạn muốn chọn loại quà để tăng cường sức khoẻ cho những người thân yêu thì đừng nên bỏ qua yến sào Côn Đảo. Yến ở Côn Đảo thường chỉ khai thác 2 lần trong một năm, thường vào cuối tháng tư và cuối tháng tám. Yến sào mua ở đây không những giá sẽ rẻ hơn mà chất lượng còn được bảo đảm hơn là bạn mua ngoài thị trường hoặc mua trên mạng thật giả khó lường. Yến sào có vị ngọt, thanh mát lại chứa đến 31 thành phần dinh dưỡng nên đây chắc hẳn sẽ là một món quà sang trọng để bạn biếu những người thân.

     Tiếp đến phải kể đến một món quà không thể thiếu đặc trưng của Côn Đảo đó là mứt hạt bàng. Ở Côn Đảo, cây bàng có mặt khắp nơi: trên các con đường, trong những khu di tích, trên dọc bờ biển trải dài, mà công sức nhọc nhằn, lao khổ của tù nhân Côn Đảo  dành cho những cây bàn này vô cùng to lớn. Trái bàng sau khi chín được người dân thu hoạch, đem phơi khô và chuẩn bị công đoạn tách hạt. Hạt bàng có hình dẹt, màu nâu và lúc ăn có vị bùi, béo rất ngon. Mứt hạt bàng thường được làm hai món là rang muối và rang đường. Mỗi món là một vị, mà vị nào cũng sẽ khiến bạn say mê khi thưởng thức, mứt hạt bàng là một trong những món quà quý nên bạn không dễ mua nó với giá rẻ đâu, 200 ngàn đồng/ kg loại rang đường và 280 ngàn đồng/ kg loại rang muối, vào mùa ngập nước giá có khi tăng lên 500 ngàn một kg là chuyện thường.

      Nếu bạn thích những đồ trang sức thì ngọc trai là sự lựa chọn số một.  Ngọc trai ở Côn Đảo là món quà lý tưởng để bạn tặng cho đối tượng là phái nữ. Không ai có thể ngờ rằng ở cái nơi đã từng xem là "địa ngục trần gian" này lại là nơi lý tưởng thuận lợi cho nghề nuôi trai lấy ngọc. Ngọc trai ở đây chất lượng và độ óng cũng như ánh xà cừ không thua gì ngọc trai ở nhiều nơi trên thế giới đâu nhé, và nếu đã chọn đồ trang sức bạn đừng quên bỏ qua những loại trang sức từ các vỏ ốc sò được những bàn tay rất khéo léo và tinh xảo làm nên nhé.

     Và cuối cùng có một món quà đặc biệt ý nghĩa vô cùng nếu bạn trân trọng những giá trị văn hoá tinh thần thì nên dừng chân trước các cửa hàng lưu niệm có mặt khắp nơi trong các di tích lịch sử. Đó là những bức tượng nhỏ nhắn tạc hình người nữ anh hùng Võ Thị Sáu. Đó là những cuốn sách như: "Lịch sử nhà tù Côn Đảo"1862-1975” của Nguyễn Đình Thống, Nguyễn Linh, Hồ Sĩ Hành; "Vượt Côn Đảo" của Phùng Quán, hay như những cuốn sách của nhà thơ của xứ Huế Võ Quê - người đã từng là tù nhân của nhà tù Côn Đảo với những cuốn: "Chị Sáu" (truyện ngắn); "Lục bát Côn Đảo", thơ - Fred Marchant và Nguyễn Bá Chung dịch sang tiếng Anh; "Côn Đảo” thơ Võ Quê, tranh Đặng Mậu Triết; “Người tử tù Lê Quang Vịnh” của Ngô Minh…

     Tạm biệt Côn Đảo với những ân tình nồng hậu, với những khám phá đầy cảm xúc khó quên, tôi trở về xứ Huế của mình với hành trang là những món quà mang âm hưởng và dư vị mặn mòi của biển khơi, của những con sóng bạc đầu hiền hoà, của những đôi bàn tay tài hoa khéo léo và những cuốn sách chở nặng tình yêu quê hương đất nước.

     Hẹn gặp lại Côn Đảo trong một ngày không xa và tôi nghĩ lúc đó, chắc chắn tôi cũng sẽ mang một món quà từ xứ Huế quê tôi để tặng cho những người dân Côn Đảo thân thương: một cuốn sách viết về những dấu ấn từ Côn Đảo tôi đã từng đến, chẳng hạn!

 

HẠNH NGỘ CÔN ĐẢO TRÊN ĐẤT HUẾ.


     Hôm nay ngày 19.10.2019 tại Hue Heritage Hotel, những cựu tù nhân Côn Đảo hiện sinh sống tại Huế rất vui và cảm động trước nghĩa cử cao đẹp theo đúng đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" của đoàn khách sạn Sài Gòn 68 - Côn Đảo.

     Theo đó, đoàn khách sạn Sài Gòn 68 – Côn Đảo đã tổ chức một buổi gặp mặt trong không khí trang trọng nhưng không kém phần xúc động và gần gũi cùng quý cô chú cựu tù nhân Côn Đảo năm xưa.

     Tiếp theo lời giới thiệu thành phần khách mời tham dự và nội dung chương trình buổi giao lưu của ông Trần Văn Hòa, Chủ tịch Hội Người tù yêu nước Côn Đảo tỉnh Thừa Thiên Huế là những lời kính cẩn tri ân, tâm huyết tận đáy lòng và những giọt nước mắt không ngăn nổi niềm xúc cảm dâng trào của cô Như Sương - nữ chủ nhân khách sạn Sài Gòn 68 – Côn Đảo.

     Không gian như chùng hẳn đi trong giây phút ấy; giây phút của những kí ức đau thương lẫn hào hùng của những cựu tù nhân đang có mặt lúc này, giây phút cảm niệm tiếc thương những anh hùng đã mãi mãi nằm xuống để bao thế hệ hôm nay được sống trong hoà bình không còn chiến tranh tang tóc.

     Trước đó, ngày hôm qua đoàn khách sạn Sài Gòn 68 – Côn Đảo đã đến viếng thăm và tặng quà tận nhà những bác cựu chiến binh do tuổi tác đã cao không đi lại được ngay sau khi đoàn vừa đặt chân xuống xứ Huế.

     Tôi thầm thán phục sự chu đáo và tình cảm của đoàn khách sạn Sài Gòn 68 – Côn Đảo đã luôn hướng về quá khứ và bày tỏ lòng tri ân rất kịp thời. Còn nhớ trong chuyến thăm Côn Đảo vừa qua, tôi cũng đã được các chị ấy đón chào rất nhiệt tình và niềm nở.

     Toạ lạc ngay vị trí rất đắc địa ở số 16 đường Lê Duẫn - Côn Đảo, khách sạn Sài gòn 68 – Côn Đảo xinh đẹp với những tiện nghi cao cấp, phòng ốc thoáng đãng thanh lịch và đặc biệt đội ngũ lễ tân rất nhiệt tình hiếu khách đã để lại một ấn tượng đặc biệt trong tôi, trở về Huế rồi mà tôi cứ ao ước sẽ có một lần trở lại.

     Món quà của đoàn khách sạn Sài Gòn 68 – Côn Đảo trong buổi giao lưu này không chỉ là một buổi tiệc ấm cúng, không chỉ ở những món quà ý nghĩa mà trên hết là tấm lòng tri ân theo đúng đạo lý: " Ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Và người Huế, mà ở đây là những cựu tù nhân Côn Đảo cũng không quên đáp lại tấm chân tình đối với đoàn khách sạn Sài Gòn 68 – Côn Đảo khi tặng một bức tranh phong cảnh Huế để làm quà lưu niệm trong lần hạnh ngộ ý nghĩa này.

     Riêng Trang Thuỳ rất vui vì đã thực hiện đúng lời hứa với Côn Đảo là đã kịp hoàn thành tập bút ký “Dấu ấn Côn Đảo" để tặng đoàn khách sạn Sài Gòn 68 – Côn Đảo và quý cô chú cựu tù nhân Côn Đảo có mặt trong cuộc hội ngộ đầy ý nghĩa này. Niềm vui - xúc cảm và tưởng nhớ: đó là những gì đọng lại trong tôi đến giờ phút này và mãi về sau.

TRANG THÙY

 

 Copyright © 2008 - 2013 Võ Quê All rights reserved.