NHÀ VĂN TÔ NHUẬN VỸ
- Details
- Published Date
- Written by Võ Quê
- Hits: 14379
Giới thiệu Nhà văn Tô Nhuận Vỹ, hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam.
NHÀ VĂN TÔ NHUẬN VỸ
* Tên khai sinh: Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941. Quê gốc: Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Tốt nghiệp Đại học Sư phạm ngành Văn, Sử. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam.
* Từ năm 1960 - 1964, Tô Nhuận Vỹ học và tốt nghiệp khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tiếp đó, từ 1964 - 1965, dạy văn ở cấp III Hậu Lộc - Thanh Hóa. Ông là phóng viên báo Cờ giải phóng Thừa Thiên - Huế (phụ trách cơ sở nội thành), cán bộ biên tập tạp chí Văn nghệ Trị Thiên - Huế, trong thời gian 10 năm (1965 - 1975). Từ năm 1976 - 1985, Nhà văn là ủy viên thường vụ, Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình - Trị Thiên. Năm 1986 - 1990, ông giữ chức vụ Tổng Biên tập tạp chí Sông Hương, Phó Chủ tịch rồi Tổng thư ký Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, năm 1989 Chủ tịch Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế, ủy viên ban kiểm tra Hội Nhà văn Việt Nam (khóa 4), ủy viên Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam (khóa 5). Ủy viên Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế. nguyên Giám đóc Sở Ngoại vụ Thừa Thiên Huế. Hiện nay: Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Trung Thừa Thiên Huế, Ủy viên Thường vụ Hội Hữu Nghị Việt Trung Việt Nam,
* Các tác phẩm đã xuất bản: "Người sông Hương" (1970); "Em bé làng đả"o (tập truyện ngắn, 1971); "àng thức" (tập truyện ngắn, 1973); "Dòng sông phẳng lặn"g (tập 1, tiểu thuyết, 1974, tái bản 1975); "Dòng sông phẳng lặng" (tập 2, tiểu thuyết, 1977); "Dòng sông phẳng lặng" (tập 3, tiểu thuyết, 1981);" Ngoại ô" (tiểu thuyết, 1982); "Phía ấy là chân trời" (tiểu thuyết, 1988). "Vùng sâu" tiểu thuyết, NXB Hội Nhà Văn, 2012.* Tác phẩm dựng phim nhiều tập: "Dòng sông phẳng lặng":
.- Nhà văn đã nhận những giải thưởng văn học: Huy chương "Vì thế hệ trẻ" của Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, (sau khi trọn bộ 3 tập "Dòng sông phẳng lặng", năm 1983). Giải thưởng loại A của UBND tỉnh Bình Trị Thiên cho tiểu thuyết "Ngoại ô".Giải thưởng "Cố đô" hạng A cho tiểu thuyết "Phía ấy là chân trời", Tặng thưởng truyện ngắn hay trong năm 1969 của báo Văn nghệ cho truyện ngắn "Chuyến tuần tra đầu tiên". Tặng thưởng truyện ngắn hay nhất trong 100 số báo Văn nghệ Gải phóng trao trong năm 1976, cho truyện ngắn "Khoảng trời màu xanh". Giải thưởng Nhà Nước 2012.
XEM ĐẶNG NHẬT MINH MÀ SUY NGẪM…
***
Tô Nhuận Vỹ
NSND Đặng Nhật Minh
Đêm xem phim HÀ NÔỊ MÙA ĐÔNG NĂM 46 vừa rồi là lần thứ 3 tôi xem phim này.Tôi không còn nhớ cảm xúc của tôi 2 lần xem trước. Nhưng lần này, không chỉ một lần nước mắt tôi trào ra. Tôi cầm máy gọi Đặng Nhật Minh:
- Cảm ơn anh vô cùng! Vô cùng!
Tôi cũng không dấu anh rằng,anh đã khiến cái lão hơn Bảy mươi đang khóc ròng đây. Có thể vận nước đang hồi nguy biến khiến tôi bồi hồi ao ước bậc Thánh nhân Hồ Chí Minh hiện về cùng đất nước. Nhưng tâm hồn và trí lực của Đặng Nhật Minh đã biến nỗi bồi hồi ao ước của tôi thành những dòng nước mắt.
- Cảm ơn anh!- tôi cũng nhận ra sự xúc động của Đặng Nhật Minh - Nhưng anh nên nhớ rằng, tôi bây giờ là loại bị họ “cho ra rìa” bởi không ăn khách! Phải là loại ông H. ông D. luôn với hàng trăm,hàng ngàn em mắt xanh tóc đỏ kia!
Tôi đã vặc lại Minh, họ là ai? Và khách là ai? Chúng tôi có là khách không? Chúng tôi vừa xem HNMDN46 toàn là anh chị em văn nghệ sĩ Huế mà anh quý mến, rồi cùng Ngô Minh và anh em Quảng bình nghẹn ngào xem THƯƠNG NHỚ ĐỒNG QUÊ mới đó (có ngay tin nhắn của Ma Văn Kháng nhận xét rằng nhiều chi tiết độc đáo bậc thầy của nghề đạo diễn thế giới trong phim này) và nhóm cà fêcủa tôi, cũng toàn là trí thức đáng quý quần tụ nhau mỗi sáng bên bờ sông Hương, cũng mới xem và râm ran bàn tán CÔ GÁI BÊN SÔNG mới đây. Và cả bà xã tôi nữa, một thạc sĩVật lý dạy Đại học, đã chụp điện thoại gọi cảm ơn anh ngay khi vừa đọc xong truyện BAO GIỜ CHO ĐẾN THÁNG MƯỜI, truyện cuối cùng trong tập truyện NGÔI NHÀ XƯA của anh vừa xuất bản… Chúng tôi có là khách không? Và cả ở Trung tâm William Joiner tại Boston và nhiều đại học Hoa kỳ, tranh cổ động phim Đặng Nhật Minh và Trần Văn Thủy dán khắp nơi,những Kevin Bowen, Fred Marchant, Bruce Weigle, Nguyễn Bá Chung, Ngô Vĩnh Long, Hoàng Khởi Phong, Trương Hồng Sơn… có là khách không?
Nói vậy thôi, chứ tôi biết rằng, anh và những nốt nhạc sâu thẳm của anh đâu cần cả rừng khách tạo bão thổi, tạo gió giật,tạo ánh sáng chớp lóe, tạo âm thanh động đất. Không cần tất cả những thứ đó mà cả anh, cả tôi, dĩ nhiên trước hết cả Dương Thụ, và biết bao nhiêu người chiều 2/9/2012 vẫn rúng hết tâm can khi bài ca Sông Lô vang lên giữa Nhà hát lớn Hà Nội!
Vào một dịp Festival Huế… tại Nhà văn hóa Trung tâm thành phố,có đoàn nhạc giao hưởng Hà Nội biểu diễn dưới sự chỉ huy của một nhạc trưởng nổi tiếng người Nhật Bản. Nhà hát chật cứng người và… chật cứng tiếng ồn. Nhạc trưởng đứng như bức tượng, đợi một sự yên lặng tuyệt đối, ông mới vung đũa.Nhưng bỗng có một tiếng dịch ghế ,ông dừng phắt dàn nhạc, mặt nhăn nhúm đau khổ. Mấy phút sau ông vừa vung tay thì một cái hắt xì hơi, ông quay hẳn mặt ra phía khán giả, không hiểu sao lại nổ ra âm thanh gớm guốc đó .Lại mấy phút như mặc niệm. Đến lần thứ ba, dàn nhạc cũng mới chơi chưa đầy một nhịp ,một tiếng chuông điện thoại rền vang như loạt đại liên, ông rời sân khấu.
Rõ ràng khó mà yêu cầu hàng ngàn khán thính giả chỉ quen động chân động tay, quen la hét đến ngất xỉu, khi đi nghe hát phải nén cả hơi thở mạnh để nghe cả một… khoảng lặng trong một bản giao hưởng. Vấn đề là đừng bỏ cua – cá vô một giỏ. Điều tôi rất lấy làm kỳ quái là việc lẽ ra phải làm mươi, mười lăm năm trước mà sao bây giờ mới thực hiện được. Đó là những phim “không ăn khách” như của Đặng Nhật Minh và một số đạo diễn tài năng khác của VN, bây giờ mới được chiếu vào giờ vàng là 21h30 Chủ nhật mỗi nửa đầu tháng? Nói “không ăn khách” là nói không chính xác. Phải nói là loại phim kén chọn khách. Số khách này không bao giờ là… đa số. Nhưng là tinh túy của văn hóa, của thưởng ngoạn. Chí ít cũng là số khách đáng cho Nhà nước tôn trọng. Tôi nhớ năm 1988,tôi tham gia một lớp học tại Viện Hàn lâm KHXX Liên xô(AON), chuyên đề ĐẢNG LÃNH ĐẠO VHVN. Một bài học(tiêu cực) rút ra từ cải tổ là Liên xô trong lúc luôn nói và luôn viết phải ưu tiên VHVN nhưng trong thực tế đầu tư cụ thể, luôn coi VHVN là “đầu thừa đuôi thẹo”. Bài học nhãn tiền ấy sao lãnh đạo Văn hóa mình học mãi không chịu thuộc!
*
Tôi xem lại CÔ GÁI TRÊN SÔNG ( trên phim và trên sách), lòng bồi hồi khó tả .Một phần tư thế kỷ đã qua. Bao thăng trầm nhưng Đặng Nhật Mình luôn luôn là Đặng Nhật Minh: lương thiện,trung thực. Giữ được điều đó phải khí phách. Dạo đó bạn bè tôi đóng các vai cho phim, như một chia xẻ đồng cảm (Võ Quê, Dương Đình Châu, Văn Thanh…). Minh cũng muốn kéo tôi đóng vai Tổng biên tập báo Hương Giang bởi anh cho biết vai này anh có dựa vào hoạt động của tôi lúc đó là Tổng biên tập tạp chí Sông Hương đang vào hồi... cao trào và cũng sắp đến đoạn phải “trả giá” cho khát khao đổi mới. Chúng tôi đồng cảm với nhau từ hồi ấy. Phải nói ngay từ 1988 mà Đặng Nhật Minh đã cảnh báo sự vô ơn, sự bạc nghĩa của những người vẫn tự xưng là cách mạng không chỉ là sự cảnh báo mà còn là sự nhạy cảm của tầm nhìn xa. Cuốn VÙNG SÂU của tôi mới xuất bản cũng cho nhân vật cơ hội Hắn, Hắn đã thực sự chết (mặc dầu thân xác Hắn vẫn tồn tại), giống như Liên báo tin cho Nguyệt rằng tay cán bộ vô ơn là Anh ấy không còn nữa, mặc dầu vẫn còn sống. Và cả Nguyệt(CGTS) cùng Thảo (VS) thân xác đều bị rách nát nhưng ngàn lần thánh thiện. Như vậy, người tốt vẫn đông đó chứ anh Minh hè! (Hơn… 1 người mà).
Mà người tốt, người đồng cảm thực sự với chúng ta không ít đâu anh ạ.Tôi vừa nhận đượchơn mười truyện ngắn và trích tiểu thuyết của một cháu gái rất trẻ (mới 21 tuổi),từ Việt Nam qua học ở Hoa Kỳ. Cháu viết mạnh,mới mẻnhưng không ồn ào,không sấm chớp động đất chi hết, giản dị,sâu sắc, có sự chia xẻ với loại “ông già Khốt -ta-bít” như tôi và anh. Tôi vừa giới thiệu cho Sông Hương đó.
Sáng nay bên bờ sông Hương, anh Cao Huy Hóa kể chuyện trước cổng nhà anh có cây Hoàng yến bị nghiêng đổ do đợt mưa bão vừa rồi, phải chặt dọn nó để có thể đi lại. Buổi trưa đi học về, đứa cháu nội mới 3 tuổi của anh mới bước đến cổng bỗng sững lại,ngó quanh và ngửa mặt lên bầu trời trống hoác la to:
-Cây bông của con mô rồi?!
Không ai dám trả lời cháu khiến cháu khóc nức nở, một bước không rời nơi vốn là cây Hoàng yến thân thiết của cháu.
Không hiểu sao, chuyện cháu bé ba tuổi khiến tôi muốn nhắn tới anh rằng, cuộc đời vẫn còn nhiều cháu bé mới 3 tuổi đã thương cây hoa vàng thì người tri âm tri kỷ với những giá trị văn hóa không bao giờ “bị ra rìa” đâu anh ạ.
Huế ngày 6/11/2012.
Tô Nhuận Vỹ.
Tiểu thuyết “Vùng sâu” của Tô Nhuận Vỹ
(Trích)
31-03-2012 03:20:36 PMVanVN.Net - Sau tiểu thuyết nổi tiếng Dòng sông phẳng lặng (ba tập) được tái bản nhiều lần và dựng thành phim, rồi các tiểu thuyết Ngoại ô (1982) và Phía ấy là chân trời (1988), đến nay, sau hơn 20 năm, nhà văn Tô Nhuận Vỹ mới lại trình làng cuốn tiểu thuyết mới. Vùng sâu gồm 28 chương, trên 300 trang; chủ yếu viết về một vấn đề hậu chiến đã khiến nhiều “tổ chức” phải “đau đầu” và nhiều con người từng sống như những anh hùng phải đau đớn trong nhiều năm vì bị chính đồng đội, chính những cơ quan quyền lực nghi ngờ phản bội cách mạng, hoặc được đối phương phóng thích sau một thời gian họ hoạt động trong lòng địch… (Nhà văn Nguyễn Khắc Phê viết). VanVN.Net xin trân trọng giới thiệu tới bạn đọc 3 chương đầu tiểu thuyết “Vùng sâu” của nhà văn Tô Nhuận Vỹ.
Nhà văn Tô Nhuận Vỹ (Ảnh: Phong Lan)
1
Phước đã bốn mươi tuổi, độc thân, chưa bao giờ có vợ có con. Và đã ba lần bị bỏ tù.
Lần ở tù thứ nhất đúng ngày Phước tròn hai mươi tuổi. Ma-trắc giáng xuống đỉnh đầu, đánh Phước gục xuống ngay mặt cầu lớn vừa láng bê tông, trong tiếng hô phẫn kích của hàng trăm sinh viên, trong tiếng rít vang trời của còi xe cảnh sát, quân cảnh, trong tiếng súng và phi tiễn loạn xạ cả một vùng.
Nhà giam chật ứ sinh viên tham gia vụ chống phá buổi khánh thành “chiếc cầu xa lộ” đồ sộ giữa thành phố, do đích thân Nguyễn Văn Thiệu từ Sài Gòn bay ra chủ trì. Đài lễ do công binh bắc lên giữa cầu bị phá đổ xuống sông, nhưng máu đã đỏ loang suốt cả mấy trăm mét cầu, đổ xuống cả mặt sông mùa thu trong vắt. Lịch sử cây cầu đã mở trang đầu tiên bằng máu của người dân thành phố, bằng máu của tuổi trẻ thành phố. Những câu thẩm vấn, quát nạt phủ đầu được chan chát đáp lại bằng khí phách của cả một phong trào qua cửa miệng sưng vù của mỗi sinh viên.
- Làm bẽ mặt Tổng thống là chống lại Quốc gia, là nối giáo cho Cộng sản, các anh có biết điều đó không?
- Chúng tôi phản đối một kẻ độc tài, một kẻ đang cùng ngoại bang tàn phá đất nước!
- Cây cầu được xây lên vì lợi ích của người dân thành phố, vì lợi ích của chính các anh. Tổng thống ra trực tiếp cắt băng khánh thành là đã dành cho Huế một vinh dự và một sự quan tâm đặc cách! Là những người có học, sao các anh lại xúc phạm danh dự của chính thành phố này?
- Không! Sự có mặt của ông Thiệu là một sự bôi nhọ thành phố. Cây cầu xây lên trước hết không phải vì người dân đang cơ cực vì chiến tranh, mà trước hết vì phục vụ cho nhu cầu chiến tranh của quân đội Mỹ, trước hết vì tô son điểm phấn cho ông Thiệu trong cuộc bầu cử độc diễn! Điều mà chúng tôi cần, mà nhân dân thành phố cần, mà nhân dân Việt Nam cần trước hết là chấm dứt Việt Nam hóa chiến tranh phi nhân, chấm dứt việc đổi màu da xác chết, chấm dứt bầu cử độc diễn, chấm dứt quân sự học đường!... Và trước hết, các ông phải chấm dứt đàn áp sinh viên, chấm dứt dùng máu sinh viên làm nấc thang danh vọng cho mình!
Phước bị đẩy vào nhà lao trong tốp sinh viên bị bắt sau cùng. Nhưng anh lại được điệu lên thẩm vấn đầu tiên.
Phước va ngay thằng Sỏ, tên thượng sĩ khét tiếng là “thợ tộn”, khi vừa bước vào phòng tra. Anh biết là không xong rồi. “Thôi được”. Với Phước thế là đã được “xác định”: cuộc này chắc sẽ thân tàn ma dại đây. Anh hít một hơi dài lấy sức, cười ngang ngửa:
- Ờ, Sỏ đó hả?
Anh đã chọc tức hắn, để hắn “vào trận” ngay. Đó cũng là một kinh nghiệm của anh em đã từng vô tù ra khám nhiều lần truyền lại. Có bị “liên thanh” ngay từ đầu, bị một lúc, cho dù có xỉu ngất ngay đi, cũng dễ chịu hơn, đỡ mất sức hơn là bị tấn công từng đợt, rải ra, vừa bị đánh hiểm nhiều hơn, vừa bị căng doãng thần kinh trong lúc sinh lực yếu dần. Gục xuống trong trường hợp đó khó lòng gượng dậy.
Nhìn đôi mắt long sòng sọc và hai quả đấm hộ pháp của nó rung rung, Phước biết thằng Sỏ đã tức điên nhưng cố kìm cơn điên xuống. Nhưng không biết vì sao hắn tự làm khổ mình như thế.
Phước và Sỏ, ngoài mối thâm thù chung giữa cảnh sát với sinh viên học sinh thành phố đã thành truyền thống xưa nay, còn có thù riêng. Không phải chỉ vì Phước là một trong những sinh viên cơ sở nòng cốt của phong trào, luôn đi hàng đầu trong các cuộc biểu tình bãi khóa và nhất là trong các vụ đụng độ với mật vụ và cảnh sát, kể cả cảnh sát dã chiến. Riêng hắn, đã đụng Phước không phải chỉ một lần, trong đó có những lần thật mất mặt. Đối với Phước, anh em thường giỡn có ba “môn” mà Phước say mê chìm đắm: môn tiếng Anh, môn võ Karate và “môn” đấu tranh. Trong tổ chức, Phước được phân công phụ trách một bộ phận tự vệ mật, chuyên đi đầu trong việc bảo vệ các cuộc đấu tranh, trấn áp bọn cảnh sinh và trụ cột trong việc đương đầu với cảnh sát. Vì vậy, hai môn đầu thực ra là cũng để hỗ trợ cho “môn” thứ ba mà thôi.
Phước và Sỏ cùng học một thầy võ khi cả hai đều đã có đai nâu. Chính Phước là học trò đầu tiên của khóa ấy được thầy trao đai đen và trong buổi kết thúc, khi các võ sinh giỏi nhất tỉ thí trước các quan khách thì Phước đã quật Sỏ bằng một cú liên hoàn đả tối tăm mặt mũi ngay khi mới nhập đài, lại ngay trước mặt của một cô gái mà Sỏ cặp tay đưa tới dự lễ, hình như là bồ của hắn.
Lần nhục thứ hai đã lại đến với hắn chỉ cách đây hơn tháng. Trong vụ xung đột ở khuôn viên trường Đại học giữa chừng cuộc hội thảo chống độc diễn, không hiểu sao lại xuất hiện thằng Sỏ bên cạnh tên cố vấn Larry mà thường chỉ gặp cả hai khi bị bắt vào nhà lao mà thôi. Chúng đứng trên xe Zeep cách trung tâm khu vực đang diễn ra cuộc đánh nhau của cảnh sát và sinh viên chừng năm mươi mét, có cả chục tay tiểu liên bao quanh bảo vệ. Có thể vì ngứa ngáy chân tay muốn ra oai để kiếm “điểm” trước mặt tên cố vấn Mỹ, nhưng cũng có thể vì mối nhục cũ, nên vừa nhác thấy có Phước, nó nói gì đó với Larry rồi nhào liền vô. Lại một lần nữa, chỉ với một cái né người, tiếp theo ra chân ngay bằng cú liên-hoàn-đả hôm trước, Phước đã đá dập Sỏ sóng soài giữa đất ướt sau trận mưa giông.
Sau hai lần bị hạ nhục ấy, Phước biết, lần này thằng Sỏ sẽ tính ăn thua đủ với anh.
Quả như vậy.
Nhưng Sỏ chưa ra tay ngay mà nói nhỏ gì đó với hai tên cấp dưới, cũng bặm trợn và to con không kém gì hắn.
Suốt trong một giờ, hai tên hung thần, bằng hai đôi giày nặng như đá tảng, tới tấp đá những cú ác hiểm vào tất cả những chỗ nào có thể đá được trên cơ thể Phước, trong lúc anh vẫn bị trói giật cánh khỉu và hai chân thì bị ràng lại bởi một đoạn xích mười ly. Nhưng nguy hiểm nhất là chúng dùng hai cây gậy thước gỗ trắc, cạnh vuông, đều đặn nện thẳng vào hai chân Phước, đặc biệt là chân phải, suốt từ đùi xuống đến năm ngón chân. Đến khi chính hai tên hung thần đó cũng đã tóe lóe mồ hôi, hơi thở đã hồng hộc ngay trong mỗi cú đánh, thì chúng chỉ có nện cây thước vào hai bàn chân Phước cho đến lúc anh ngất đi.
Phước đã hiểu: thằng Sỏ đã ra lệnh cho đàn em dần nát cặp chân đã làm nhục hắn. Cho chắc ăn?
Phước đã đoán trúng ý đồ của thằng Sỏ.
Một ngày sau trận đòn tàn mạt ấy, khi Phước tưởng không còn đủ sức điều khiển cho dù chỉ cử động một ngón chân ngón tay. Cả thân xác anh dán chặt xuống nền xi măng nhà lao mà chất keo dán là mồ hôi và máu của cơ thể tứa rỉ ra.
Đúng lúc ấy thằng Sỏ gọi Phước lên.
Nhưng trước mặt tên “thợ tộn” của tất cả anh em tranh đấu, Phước không thể tàn tạ mất tư cách. Anh đã nín thở vượt những cơn đau xé trong từng thớ thịt để đứng thẳng dậy. Hơn nữa, hôm nay có mặt cả Larry, tên cố vấn trẻ tuổi nhất trong đám cố vấn của lực lượng cảnh sát thành phố, nổi tiếng về sự nói ít nhưng thâm hiểm và nổi tiếng cả sự hiểu biết rộng. Larry nhìn Phước bằng một cái nhìn tò mò hơn là dò xét, gần như mắt nhìn của một kẻ quan sát ngoài cuộc. Mày tính bày trò gì thì kệ thầy trò mày, bổn phận tao là chết cho đàng hoàng. Phước tự nhủ như vậy vì anh biết chỉ cần một trận đòn như hôm trước chắc đời anh sẽ tới khúc “hạ màn”. Phước cũng chẳng suy tính gì nhiều, đơn giản thôi: đã dấn thân vô con đường này là chấp nhận sự mất còn cách nhau gang tấc.
- Mày chỉ có một việc lúc này, một công việc duy nhất mà mày phải làm - thằng Sỏ thong thả nói với Phước - là đánh gục tao, cho đánh tao đến chết. Tao không gục, tao không chết thì mày phải chết. Không có bất cứ ai can thiệp vào hết. Sòng phẳng!
Phước hiểu: cuộc tỉ thí “sòng phẳng” mã thượng mà thằng Sỏ vừa tuyên bố là một bản án tử hình thực sự đối với anh. Tên Larry cố giữ vẻ nghiêm nghị nhưng mắt nó nheo cười. Nó có vẻ khoái cuộc đấu kỳ lạ mà dã man này? Thằng Sỏ tự tay tới mở còng cho Phước, kéo một cái ghế cho anh ngồi, rồi trở về chỗ cũ.
- Trừ phi mày cúi đầu lạy tao ba lạy và tuyên bố ly khai phong trào sinh viên làm loạn! Cho mày hai phút suy nghĩ.
Tên Larry chăm chú nhìn thẳng vào nét mặt lầm lì của Phước rồi chợt vẫy tay ra hiệu cho tên cai ngục. Lát sau, tên cai ngục đem tới cho Phước lon cam lạnh. Ơn huệ cuối cùng của chúng dành cho tử tù đây, Phước hiểu như vậy, dù sao cũng cảm ơn mày đó Larry. Lon cam lạnh có giúp cho Phước tỉnh trí thêm đôi chút. Thôi chào tất cả anh em, ở lại ráng giữ gìn lực lượng. Mình sắp đến giờ đi rồi đây.
Phước đã chọn cho mình một cái thế để chết. Anh rời chiếc ghế và loạng choạng bước tới chính giữa phòng và hơi xoay người rồi ngồi xuống. Sỏ và Larry buộc phải chuyển dịch để đối diện với Phước. Phước ngồi xuống gần như ở tư thế kiết già, hai bàn tay để lên đùi. Cả Sỏ và Larry đều kinh ngạc với thế nghênh chiến lạ lùng đó. Chúng hoàn toàn không biết rằng, như trong những lần tuyên thệ thiêng liêng, những đồng chí anh em Phước đều để một phút lặng im quay mặt về hướng Bắc, trái tim và linh hồn của cuộc kháng chiến trường kỳ. Chào đồng chí, chào anh em. Tôi đi đây. Trong ngực Phước thầm thốt lên lời vĩnh biệt ấy. Rồi anh hất đầu ra hiệu mời thằng Sỏ động thủ.
Trước thái độ bình tĩnh cùng kiểu cách nghênh chiến lạ lùng của Phước, cả Sỏ và Larry đều ngạc nhiên. Nhưng thằng Sỏ không một chút ngại ngùng. Hắn chỉ hơi lạ một chút trước kiểu cách của một người sắp chết thôi. Hắn đã thuyết phục được sếp và cả Larry cho hắn quyền trị một trong những tên cứng đầu nhất của sinh viên bạo loạn. Bày được trò tỉ thí “đàng hoàng” này, mà hắn biết chắc vì danh dự sẽ không bao giờ Phước từ chối, hắn sẽ trả thù được hai lần bị hạ nhục, đồng thời sẽ trừ khử được Phước mà không mang tiếng thủ tiêu. Vì hắn biết, chỉ cần vài cú ra đòn của bọn đàn em, chứ chưa kể đến đòn của hắn, là Phước sẽ gục. Và lần này sẽ gục vĩnh viễn.
Thực ra, Phước chưa hẳn đã bó tay chịu chết. Với kiểu ngồi này, Phước đã có tính toán. Sức lực của Phước hầu như chỉ còn lại chút ít nơi hai cánh tay là chỗ bị đòn ít nhất hôm trước, mặc dầu lúc này nó cũng đã tím bầm và sưng vù như hai cánh tay bị nhuộm thuốc. Với thế ngồi trệt, Phước buộc Sỏ phải dùng chủ yếu bằng hai chân, tránh được sức mạnh nguy hiểm nhất của thằng Sỏ là ở hai cánh tay. Cũng như khi hắn cho đàn em dần nhừ đôi chân anh là cốt loại trừ sức mạnh nguy hiểm nhất của các ngón đòn anh thường ra. Đôi chân của thằng Sỏ, những cú đá của hắn thường không nguy hiểm. Cho dù chỉ còn một chút sức cùng lực kiệt, Phước cũng còn đủ tỉnh táo để chọn đối sách thích hợp: lấy đôi tay là chỗ mạnh duy nhất còn lại của mình để chọi điểm yếu của đối phương. Nhưng Phước cũng biết rằng, giỏi lắm thì đôi tay của anh cũng chỉ đỡ được vài ba cú đá của thằng Sỏ, giữ cho mặt và ngực không bị trực diện vài ba cú đòn đầu tiên mà thôi. Để cái chết của anh không quá dễ dàng. Không thể chết nhục nhã một bề chịu trận trước mặt kẻ địch. Còn được tới đâu nữa thì, mô Phật, cầu trời Phật, cầu ba mạ phù hộ cho con…
Đúng như Phước dự đoán, trong cú ra đòn đầu tiên, thằng Sỏ dồn hết sức bình sinh vào cú đá thẳng mặt Phước. Hắn không chỉ dồn tất cả sức lực, cả lòng hận thù vào cú đá mà còn quyết diệt tức khắc đối thủ ngay ở cú đá đầu tiên như Phước đã hạ nhục hắn khi mới ra đòn. Nhưng chính vì dồn quá sức cần thiết, lại thêm sự nóng vội nên cú đá không hiểm, chỉ như một cú lia ngang chí mạng của một cây phảng. Phước còn đủ sức cúi rạp mình xuống tránh. Cả thân hình kềnh càng của thằng Sỏ quăng ình xuống nền nhà sau cú đá hụt. Nhưng hắn đã lật ngay người vụt dậy. Không dừng lại một giây nào, hắn lại bồi ngược một cú đá thứ hai y hệt cú thứ nhất. Phước nín thở cúi rạp mình xuống tránh đòn. Lại như lần trước, thân hình thằng Sỏ quăng ình đến tận chỗ Larry ngồi. Một chuỗi cười rống lên. Bọn cai tù, và cả thằng Sỏ, quay lại thì thấy Larry đang ôm bụng cười như bị ai thọc léc. Thằng Sỏ tức điên lên, nhất là khi thấy Phước vẫn ngồi yên như ban đầu, tuy mặt anh tái dắt và mồ hôi túa tràn trên mặt.
Và cú đá thứ ba. Lần này hắn sẽ đá thấp hơn, thẳng vào giữa ngực. Phước đoán chắc điều đó như biết tính khí lỗ mãng, hữu dũng vô mưu của tên hung thần này. Để tránh được hai cú đòn ào ạt trước, Phước như đã vận hết sạch nội công chân khí để bắt cả thân mình gập sát xuống chân. Vì vậy lúc này, cho dù đã tỉnh táo hơn, những vết đau nhức nhất như cũng vì anh mà dịu bớt đi, nhưng cơ thể cứ như hình giấy, nhẹ bẫng. Phước chỉ còn hy vọng may ra thì anh tránh được một đòn nữa thôi, rồi không cần thằng Sỏ tấn công tiếp chắc cũng đủ cho anh đứt hơi. Anh đã yếu quá rồi…
Vụt!... Chưa kịp định thần thì thằng Sỏ đã phóng cú đá thứ ba vào chính giữa ngực Phước. Lần này Phước mới thực sự dùng đến hai tay: theo đà hai chân thằng Sỏ phóng tới, hai bàn tay Phước đẩy ngược cú đánh. Hai chân thằng Sỏ bị đẩy vượt khỏi đầu Phước và cả người nó bị ném ngửa đánh rầm phía sau lưng Phước. Và chính Phước, cũng bị cái đà tấn công ấy mà ngả ngửa xuống nền nhà. Thằng Sỏ thét lên một tiếng như người lao vào đâm trâu, lật người đứng dậy lao tới phóng quả đá thứ tư. Nhưng, chính tiếng thét khát máu và man rợ tưởng chừng dựng cả tóc gáy người nghe của thằng Sỏ lại như một mũi thuốc hồi sinh cấp thời chích thẳng vào đôi chân của Phước. Với tư thế nằm ngửa, Phước nghiêng người phóng một cú đá tuyệt mệnh may rủi vào cả khối người đang đổ xuống anh. Chỉ một tích tắc sau, hàng loạt tiếng thét tiếng la vang lên trong phòng tra tấn, những tiếng thét tiếng la của người sắp chết và của tất cả những kẻ đang sống.
Cú đá điên cuồng của thằng Sỏ lần này đã phóng đúng ngực Phước. Phước hộc lên và máu từ miệng anh phun đẫm mặt thằng Sỏ.
Còn thằng Sỏ, đúng lúc đá trúng ngực Phước, cũng nhận lãnh trọn vẹn một cú đá tuyệt mệnh, của một kẻ kiệt lực nhưng thục luyện trong ra đòn ngay cả lúc cận kề cái chết. Cú đá giáng bể luôn hạ bộ của hắn.
Cả hai đều được chở gấp tới bệnh viện như hai xác chết đẫm máu.
* * *
Phước không chết cũng là một chuyện kỳ lạ.
Sau một tháng điều trị tại bệnh viện, nhờ sự chăm sóc của những người thầy thuốc có lương tâm và sự thăm nuôi của anh chị em sinh viên, của các chị các mẹ phong trào, Phước đã thoát khỏi tay thần chết.
Có một chuyện hơi lạ mà nhờ bạn bè kể lại Phước mới hay. Vào giai đoạn Phước còn mê man bất tỉnh, chừng hai chục ngày đầu, Larry thường qua bệnh viện. Mỗi lần qua đều đem thêm cho Phước một ít thuốc quý và đề nghị các bác sĩ chăm sóc chu đáo cho ca bệnh này. Khi Phước đã tỉnh thì Larry không qua thăm nữa. Chính điều ấy khiến anh em và Phước phân vân. Nếu vì nóng ruột mong tù nhân mau lành để khai thác thì sao khi Phước tỉnh lại, khi đã có thể trả lời các câu hỏi, Larry lại không còn lai vãng? Có anh em cho rằng, cần chú ý đến Larry, biết đâu hắn thuộc thành phần phản chiến. Nhưng không ít người gạt phắt khả năng đó với lý lẽ thật đơn giản: đã làm cố vấn cho hệ thống cảnh sát đặc biệt thì hy vọng có thành phần tốt trong đó là hy vọng tìm kim đáy biển. Đối với Phước cũng đã có dẫn chứng rất rõ ràng: chính Larry đã chấp nhận, thậm chí ngồi làm “trọng tài”, cuộc tỉ thí với thằng Sỏ mà thực chất là chấp nhận cho Sỏ giết chết Phước một cách rất hợp pháp. Larry đã ký lệnh giết Phước chứ không phải ai khác. Đừng có mơ hồ mất cảnh giác. Chuyện Phước không chết là một điều ngoài ý muốn của Larry và Sỏ, là một chuyện kỳ lạ ngay cả với người giàu óc tưởng tượng nhất, chỉ còn có thể tin vào tín điều ở hiền gặp lành thôi. Và với thằng Sỏ, rõ ràng là ác giả ác báo. Nó không chết cũng là phúc tổ, nhưng bị dập nát cả hạ bộ. Đúng là đau hơn hoạn, mất cả chì lẫn chài: quyết rửa nhục thì chuốc thêm nhục, dương dương tự đắc nhận là loại đệ nhất cao thủ của lực lượng cảnh sát thành phố mà bị cả một tên tù gần đất xa trời đánh cho bể dái, tiêu luôn cả hy vọng nối dõi tông đường của nhà nó, vì nó là con trai duy nhất trong mười một chị em. Ngay lúc còn nằm trên giường bệnh, con bồ sắp sửa đi ăn hỏi, khi biết tin nó đã tịt nòi, cũng cho nó ăn gạo “de” An-Cựu luôn. Ra viện, vừa hận vừa nhục vừa nhức đầu với những lời bù lu bù loa của cha mẹ chị em, thằng Sỏ sấp ngửa lạy lục chuyển vô miền Nam tức khắc, chẳng còn bụng dạ đâu lo chuyện trả thù tiếp nữa.
Sau khi ăn được cơm ít ngày, Phước bị dẫn độ trở lại nhà giam. Hai ngày sau đó, Larry cho gọi Phước lên văn phòng. Đây là lần đầu tiên Phước trực tiếp nói chuyện với Larry.
- Chúc mừng anh đã tai qua nạn khỏi – Larry vươn người qua cái bàn to rộng bắt tay Phước khi anh chưa kịp ngồi xuống ghế.
- Cảm ơn ông. Nhưng tôi vẫn đang là tù nhân của ông.
Larry cười:
- Thứ nhất, ông không phải là tù nhân của tôi mà là tù nhân của chúng tôi. Thứ hai, khi tôi nói anh đã tai qua nạn khỏi thì không chỉ là việc anh thoát chết vừa rồi, mặc dầu đó là điều kỳ lạ cũng đáng chúc mừng, mà còn là chuyện này nữa: ngày mai anh sẽ được trả lại tự do.
Điều Larry vừa nói quả có khiến Phước bất ngờ. Phước muốn nhân cơ hội hiếm hoi này để thử lần dò một kẻ thù khó hiểu, đã gây ra tranh cãi trong chính tổ chức của Phước.
- Tôi muốn được nói chuyện với anh trước ngày anh trở về trường Đại học và dù biết anh giỏi Anh ngữ, tôi vẫn muốn nói chuyện bằng ngôn ngữ của dân tộc anh như một chút lòng thành của tôi – Larry vẫn chậm rãi và vui vẻ - Nhưng tôi không muốn nói đến chuyện chính trị, chuyện súng đạn và chuyện khẩu hiệu lúc này.
Phước ngạc nhiên khi Larry chủ động dẫn dắt câu chuyện bằng giọng điệu tâm tình.
Theo lời hắn kể, hắn cũng là một sinh viên như Phước trước lúc sang Việt Nam. Cho dù hơn Phước bốn tuổi, hắn và Phước và bạn bè Phước đều là tuổi trẻ học đường của thế giới hiện đại, có chung nhiều căn bản hiểu biết và khát vọng trong cuộc sống tốc độ và đầy phấn kích lẫn bi kịch hiện nay. Con người bây giờ phải biết gạt bỏ và vượt qua những bất đồng vụn vặt hoặc không nhân bản để đến với nhau trong những mục đích cao cả hơn thì đó mới là con người của thời đại này, thời đại mà các biên giới quốc gia đã, đang và sẽ dần mất ý nghĩa, trái đất dần sẽ là mái nhà chung của tất cả chúng ta, của cả anh và tôi. Đến Việt Nam, đến Huế này, gặp và đối mặt với các bạn, với Phước, có lúc tôi bị sức sống của các bạn, cho dù là có cực đoan, hấp dẫn. Tôi nể trọng anh, Phước à.
- Ông Larry… Nếu có thể - Phước quyết định đối mặt với tên cố vấn – ông cho tôi hỏi: những lời lẽ nhiệt huyết vừa rồi và việc ông cho phép Sỏ tính giết tôi một cách hèn hạ, có liên quan gì với nhau không? Và nhất là, nó có cùng một logic không?
- Tôi biết anh sẽ hỏi điều đó! Thôi được – Larry lắc đầu nhẫn nhục – chúng ta đành phải nói tới chuyện mà thực lòng tôi muốn tránh hôm nay – Như ông có thể biết, tôi sang Việt Nam do trách nhiệm một công dân hơn là do sự tò mò của tuổi trẻ. Nước Mỹ giao cho tôi công việc này, nếu nước Mỹ giao cho tôi bất cứ việc gì trong trách nhiệm của một công dân, tôi đều phải hoàn tất chu đáo, tốt đẹp nhất có thể. Việc chấp hành kỷ luật và hoàn thành nhiệm vụ là điều tối cao đối với tôi, cho dù tôi chỉ ở đây mấy năm. Bất cứ một tổ chức nào, một đất nước nào,nếu không có thứ kỷ luật đó thì tất yếu sẽ tan rã. Tôi tự hào về nước Mỹ và tự hào về mình đã hoàn tất mọi công việc được giao ở đây. Đúng, ông là tù nhân của chúng tôi. Chứ riêng tôi không bao giờ bắt ông, giữa ông và tôi nếu không dính vào trách vụ, chắc chắn sẽ có mối quan hệ khác. Anh là một trong những sinh viên trụ cột của phong trào chống đối ở đây. Chúng tôi phải trừng trị anh là chuyện bình thường. Cũng như, nếu có điều kiện chắc anh cũng sẽ trừng trị tôi, đó cũng là chuyện hiểu được. Nhưng riêng tôi, tôi vẫn có những khoảnh khắc riêng cho suy nghĩ, cho tình cảm của mình và không bao giờ tôi giao cho một ai. Từ “khoảng riêng” đó, tôi thích các ông, tôi nể trọng anh. Các anh dám sống tận cùng, dám gánh chịu, kể cả khi theo một đường hướng sai lầm, là chống lại chúng tôi. Tất cả những người dám sống thực với chính mình nhất đều đáng nể trọng và sự khinh ghét chỉ nên giành cho kẻ giảo hoạt, cơ hội. Trong hàng ngũ chúng tôi, kể cả những chính khách, đầy rẫy những kẻ đáng khinh ghét đó, nhưng chúng tôi đang làm một công việc lớn lao ở đây. Tiếc rằng, và đó là bi kịch lớn nhất, điều đau đầu khó hiểu nhất đối với tôi, là các anh không chịu hiểu ra cái điều lớn lao ấy. Và cuối cùng, anh cho tôi nói điều này: tôi không hề biết Sỏ quyết giết anh. Khi thấy anh trước phút tỉ thí tôi mới hiểu ra tình thế. Nhưng lúc đó tôi đoán trận đấu sẽ không diễn ra, vì tôi tin rằng chắc anh sẽ không tuyên bố ly khai phong trào sinh viên nhưng anh sẽ xin lỗi Sỏ. Chỉ chừng đó cũng đủ chấm dứt trận đấu thê thảm vì dù sao anh cũng đã hạ nhục Sỏ hai lần đích đáng. Tiếc thay, anh vẫn là… anh! – Larry cất tiếng cười vang – Thật đơn giản một vấn đề tưởng phức tạp: với chúng tôi, thì tôi cầu cho anh chết thay vì Sỏ, nhưng với riêng tôi, thì tôi mừng khi anh sống sót và Sỏ phải chết. Rốt cuộc cả hai đều không chết, có nghĩa là Chúa nói rằng,cả phần chúng tôi lẫn phần riêng tôi cùng tồn tại trong một thực thể có tên là Larry. Và đó là nước Mỹ, Phước à!
* * *
Gần hai tháng sau, Phước lại đối diện với Larry khi bị bắt lần thứ hai. Lần bị bắt này và những gì liên quan đến chuyện đó đều khiến Phước ngạc nhiên.
Ít ngày sau khi ra tù, khi đã đủ sức đi lại bình thường, tổ chức triệu tập Phước lên chiến khu. Phước đã từ chối dự định của cấp trên cho anh ra miền Bắc đề điều dưỡng sau trận thoát chết và cũng để sau đó đi học chuyên môn chuẩn bị cho ngày giải phóng. Không khí miền Nam và cả nước đang quá chừng chộn rộn cho một giải pháp hòa bình và thống nhất, sự âm thầm chuẩn bị của các lực lượng cách mạng cho cuộc Tổng công kích và sự thiếu hụt của cán bộ phong trào nội thành đã khiến Phước tha thiết đề nghị cấp trên cho trở về lại thành phố. Lãnh đạo đã chấp nhận đề nghị của anh.
Trước lúc theo giao liên trở lại nội thành, Phước được kết nạp vào Đảng.
Nhưng vừa về đến phố được ba hôm, Phước bị bắt. Cảnh sát không bắt được bất cứ một tài liệu nào trong người cũng như trong căn phòng ở mướn của anh. Nhưng, khi gặp Larry, anh mới biết tình hình nghiêm trọng hơn rất nhiều. Larry nói ngay cho Phước biết, địch đã biết anh vừa lên mật khu nhận chỉ thị mới về, vừa được kết nạp vào Đảng Cộng sản, vừa được “thăng chức” phụ trách cả một căn cứ lõm. Cả mấy chữ căn cứ lõm còn rất mới ngay với nhiều đồng chí của Phước đã dính ngay ở câu nói đầu tiên của Larry càng khiến anh sững sốt. Rõ ràng có kẻ phản bội. Kẻ đó là ai? Nhưng lúc này, chưa phải và chưa có điều kiện để điều tra chuyện đó. Trước mắt Phước là Larry, lần này lầm lì hơn và có vẻ cau có hơn. Nghe nói, chính Larry cũng sắp về nước . Đúng ra cũng như lần trước, Larry thường đi thẳng vào vấn đề dù rắc rối và nguy hiểm, nhưng rõ ràng Phước không phải không có cơ sở để chối tất cả lời buộc tội chính yếu khi nói chuyện, có điều lạ, là suốt mấy cuộc nói chuyện chỉ có Larry với anh mà thôi. Điều đó khiến anh càng cảnh giác.
- Lần này thì tôi không giúp gì được cho anh đâu.
- Hóa ra lần trước, ông có giúp cho tôi? Vậy ông không sợ bị kết tội nối giáo cho lực lượng sinh viên bạo loạn ư?
Larry nghiêm sắc mặt:
- Anh đừng đùa, tình hình nghiêm trọng hơn anh tưởng đấy. Anh chỉ có hai con đường: Cộng tác với chúng tôi hoặc ra đảo. Với tình hình sức khỏe của anh, nay lại mang thêm chứng sốt rét rừng, và với một hồ sơ tội trạng nặng hơn trước gấp mười lần, thì chuyện bỏ xác ngoài đó là điều chắc chắn.
- Larry, ông biết tôi rồi đó. Vì vậy, ông đừng dọa tôi vô ích.
Larry đứng dậy đi đi lại lại trong phòng, trầm ngâm như đang tính toán một điều gì khó xử, một tác phong trước đây Phước chưa từng chứng kiến. Rồi hắn kéo ghế tới ngồi gần Phước hơn.
- Đúng, tôi không thể nào dọa nạt được anh. Anh Phước, tôi không giấu gì anh, những gì mà tôi biết, tôi chứng kiến suốt từ hồi anh nằm viện cho đến nay khiến tôi rất đau đầu. Không ít vấn đề tôi chưa giải thích nổi. Nhưng tôi vẫn là một người của chúng tôi. Anh hiểu như thế có nghĩa là thế nào chứ? Nếu còn một chút tình cảm nào giành riêng cho anh, thì tôi quyết định sử dụng ngay nó đây: tôi sẽ nói để anh hiểu tình thế của anh, để anh không thể không cộng tác với chúng tôi.
- Ông muốn nói về chuyện gì? Muốn tôi khai ra tổ chức và hệ thống đường dây của chúng tôi ư?
- Không, không cần! Chiến tranh sắp kết thúc, tôi cũng sắp phải về nước! Tôi muốn cùng với anh bàn chuyện sau chiến tranh kia. Và ở ngay thành phố này. Đó những giao kèo lớn bảo đảm tuyệt đối tương lai cho anh.
Phước chợt hiểu điều cốt tử nhất trong câu chuyện vòng vo của tên cố vấn Mỹ. Hóa ra chúng nó nghĩ rằng có thể mua chuộc được anh ư? Phước run cả người. Nhưng cảm giác bị xúc phạm qua nhanh. Phước lấy lại bình tĩnh. Đừng nóng nảy, để xem chúng toan tính những gì.
- Tôi dứt khoát từ chối vai trò đó thì sao?
- Cũng không thể được. Trong trường hợp ấy, phía các anh sẽ có trong tay những bằng chứng là anh đã chính thức cộng tác với chúng tôi trong kế hoạch hậu chiến.
- Ông cũng tham gia trò chơi bẩn thỉu này sao?
Hỏi xong câu đó chính Phước cũng ngớ người: hóa ra lâu nay anh đã nghĩ “khác” về Larry?
- Thứ nhất, đây không phải là trò chơi mà đây là chiến tranh. Mà chiến tranh thì có quy luật riêng của nó, sự khắc nghiệt không dành riêng biệt lệ cho một ai cả. Thứ hai, như đã có lần tôi đã nói với anh, tôi là một người lính, tôi phải hoàn thành công vụ để cấp trên không thể khiển trách tôi.
- Còn riêng ông?
- Xin lỗi!...- Larry mệt mỏi phẩy tay, không còn đâu thái độ tự tin hai tháng trước đó nữa - Trong trường hợp hệ trọng này không có chỗ dành cho phần riêng tư.
Phước bị giam cho đến ngày giải phóng. Từ hôm đó cho đến ngày ra tù lần thứ hai anh không lần nào gặp Larry nữa. Nhưng anh vẫn mơ hồ nghĩ rằng, lần bị bắt này anh ít bị xét hỏi và tra tấn mà lẽ ra phải nặng nề hơn lần trước, chắc có sự can thiệp của Larry trước lúc y về nước. Riêng chuyện CIA và tình báo Sài Gòn, do Larry trực tiếp, có thể đã lập hồ sơ giả về anh, để bôi nhọ anh và phá rối nội bộ cách mạng sau khi địch thua chạy, cho dù có chút e ngại, nhưng nói chung Phước coi thường. Nói đúng hơn là anh không thực để ý đến. Bởi Phước cho rằng đó chỉ là lời đe dọa có phần con nít. Nhưng căn bản và lớn lao hơn là anh tin tưởng ở tổ chức Đảng, tin tưởng tổ chức cách mạng hiểu ruột gan lòng dạ và sự trung thành tuyệt đối của anh. Một tổ chức cách mạng đã đánh gục cả lực lượng phản động ghê gớm như Mỹ thì không thể đễ dàng tin vào sự bịa đặt abc như vậy của kẻ thù.
* * *
Nhưng cuộc đời không như Phước nghĩ.
Thành phố Huế sau ngày 26 tháng 3 năm 1975. Như nhiều anh em hoạt động phong trào khác, đối với Phước, quãng thời gian đó thật lạ lùng. Nó đầy rẫy những phút giây say sưa nghẹn ngào lẫn thất vọng, đầy rẫy niềm vui lẫn nỗi buồn, đầy rẫy hân hoan lẫn bi kịch, như cùng vô số đám cưới được tổ chức là bệnh viện liên tục cấp cứu các ca tự tử. Thành phố tràn ngập cờ khẩu hiệu và tiếng hát mê say lẫn những tiếng khóc tức tưởi trong các căn phòng kín. Những ngày tháng của nhiều nghịch cảnh, nồng nàn và xô bồ, mới mẻ lẫn cũ kỹ. Nhưng tất cả những điều ấy hình như gần với tuổi trẻ, nó gần với khí chất thích đương đầu, thích làm quen với những điều bất ngờ của tuổi trẻ. Nên anh em đã sống hết mình, không hề tính đến được và mất, không tính đến chỗ đứng chỗ ngồi và miếng ăn. Không khí hừng hực tâm linh của những đêm không ngủ, của những ngày xuống đường vẫn chảy trong huyết mạch của anh em.P hước đã sống hòa vào khí thế ấy, vẫn dấn thân với chất sống bất diệt ấy, làm bất cứ việc gì được phân công, gánh vác bất cứ việc gì vấp phải, việc càng khó càng hăng hái nhận đầu tiên.
Chính vì thế, Phước đã trở lại miền Tây, với núi rừng chiến khu trong binh đoàn thanh niên xung phong của thành phố đi khai hoang. Cảm xúc ngày nào về rừng chiến khu, cho dù trong một tình cảnh đã khác hẳn, vẫn còn thấm đẫm trong huyết mạch Phước. Vẫn nguyên vẹn đó sự hoang dã tuyệt mù của một nơi chốn rèn đúc bản lĩnh của bao bậc anh hùng. Vẫn nguyên vẹn đó khí thiêng hào hùng của người chiến sĩ được đặt chân tới những nơi chốn mà những kẻ bé gan nhu nhược kinh sợ.
Nhưng chỉ sau chừng một tháng, Phước được lệnh bàn giao gấp trách nhiệm tiểu đoàn trưởng để về thành phố nhận nhiệm vụ mới.
2
Chiếc cầu xa lộ ào ào xe qua và gió chiều bất chợt. Ngọn gió nồm phóng khoáng hình như thổi về phố sớm hơn mọi chiều cũng không làm loãng bớt đi không khí nồng bức đặc quánh giữa mùa hè của vùng cầu trung tâm thành phố. Búa tạ nện chát chúa xuống xà beng đục phá các mảng bê tông. Cả cuốc chim thi nhau mổ tóe lửa như gãi tức mặt cầu. Cả một đám người nhốn nháo, giữa mê man gỗ, tre, thùng, đá tảng… lươm bươm tha tới “khoanh” gần cả nửa mặt cầu để “làm thịt”. Tiếng la gọi, cả hét toáng lên, của đám thợ áo quần xanh đẫm bụi bị luốt đi trong tiếng còi xe và tiếng nổ xọc xạch lạ lùng của cỗ máy phát điện vừa được cẩu đến sáng nay, đặt chình ình lạ mắt trên lề của đường bộ hành.
Phước dấn lên dốc cầu, mong chóng thoát qua cái vùng bỗng nhiên nhức buốt này. Nhưng, như để “hưởng ứng” không khí bức sốt đó, chiếc xích lô bỗng “éo” một tiếng thật khiếp như bị phanh kít lại. Phước vọt xuống, loay hoay đẩy lui đẩy tới chiếc xe bỗng nặng trịch giữa tiếng la lối om sòm của đủ loại xe cộ bất ngờ bị ngáng lại phía sau. Tiếng xin lỗi và nụ cười dã lã của Phước cũng lại như khiến tiếng la lối càng om sòm và gay gắt hơn. Một dáng băng đỏ loáng thoáng trong cái mớ lộn xộn. Và một câu nói ngay cạnh:
- Anh đưa dùm xe vô lề cầu.
Phước ngẩng lên và sửng sốt: một người đàn bà, đồng phục xanh đã bạc như nhiều người đang làm việc trên mặt cầu - Nhưng… nước da trắng và đôi mắt đen láy. Như để gạt đi thoáng nghi ngờ của mừng, anh nhận ra cái băng đỏ giữa khuỷu tay áo xanh và người ấy đang vẫy một thanh niên áo xanh khác gần đó tới phụ giúp Phước khiêng chiếc xe vào lề cầu – Nhưng thật lạ, chiếc xích lô vừa được đặt xuống thì lại không bị kẹt kọt gì nữa, đẩy tới đẩy lui nhẹ bẫng!
- Anh giỡn chi kỳ vậy? – Người đàn bà bỗng lạnh lùng lắc đầu. Cái lắc đầu chán ngán khiến Phước chạnh lòng.
- Xin lỗi, tôi không giỡn.
Có lẽ giọng nói chân thành của Phước đã giúp anh.
- Anh mới đi xe lần đầu à?
Xe qua khỏi cầu rồi Phước mới nhớ là mình quên trả lời câu hỏi của người đàn bà. Người đàn bà công trường ấy còn trẻ, như một cô gái. Và quá đẹp.
“Anh mới đi xe lần đầu à?” Sao cô ta đoán giỏi thế? Thế đấy, đi xe… Người ta vẫn gọi điếm đò, điếm chợ, cả loại điếm phong lưu hành nghề là đi kha, đi khách, đi xe… Một nỗi buồn tê tái quặn buốt lòng Phước.
Ngày Phước khoác ba lô tạm biệt rừng núi miền Tây và anh chị em trong tiểu đoàn thanh niên xung phong để trở lại thành phố, trong đêm lửa trại và rượu đoác tưng bừng chia tay, một cuộc “cá cược” chết bỏ đã nổ ra giữa những tay “tham mưu con” và “tướng số tử vi mi-ni”. Kẻ khẳng định phen này Phước sẽ được thăng quan tiến chức, nếu không bí thư thành đoàn thì bét cũng phải ngồi ghế phó thường trực, xúp cái tay Hoán – rệu rã hơn ghế mục lâu nay đi. Người thì khẳng định Phước sẽ “thượng kinh ký sự”, mà ký sự suốt 24 tháng tại trường Nguyễn Ái Quốc Hà nội, mấy cha tổ chức chứng tỏ tầm nhìn và trách nhiệm của mình về việc bồi dưỡng lực lượng trẻ kế cận bao giờ cũng theo bài bản ấy cả. Có mấy cô đội viên hay xúc cảm và giàu trí tưởng tượng, trong đó có nàng thường ngày có vẻ cảm tình đặc biệt với tiểu đoàn trưởng nhất, lại nói xéo ra Thủ đô gặp toàn gái Hà thành thanh lịch, chắc gì hai ba năm anh Phước đã về lại cái xứ nghèo khổ và sầu thúi ruột này. Nghe mà thương bạn bè quá. Bất giác lúc ấy Phước nhớ lại mùa Giáng sinh Bảy hai, cả thành phố, cả tổng hội sinh viên, sôi sục trong những ngày hướng về Hà Nội đang cháy ngút trời ngọn lửa đánh trả B52 Mỹ. Trong lòng Phước lại dậy lên mong ước, như giữa những giây phút sục sôi ấy ra được tận nơi chốn thiêng liêng đó. Rưng rưng trong lòng Phước hai câu thơ vang dội hào khí dân tộc cả một thời kháng chiến, đã bao lần vang lên trong các giảng đường, trong các đêm không ngủ của phong trào: Từ thuở mang gươm đi mở cõi/ Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long…
Nhưng…
Khi về đến Thành đoàn, đáp lại cái bắt tay nồng nhiệt và thái độ hồ hởi có phần hồi hộp của Phước, cái tay Phó bí thư thường trực mà bạn bè tiểu đoàn gọi là cái ghế mục ấy chỉ đáp lại bằng bàn tay hờ hững mềm như lông thỏ, nụ cười đãi bôi và một thông báo không lạnh không nóng:
- Cứ nghỉ ngơi cho khỏe đã – Tổ chức sẽ gặp Phước sau.
“Cũng phải thôi”, Phước nghĩ thế, “chẳng lẽ nói chuyện công việc ngay sau cái bắt tay”. Nhưng, Phước vẫn cười, nói với hy vọng câu chuyện sẽ tiếp tục:
- Ông nhớ là mình rất khỏe. Và điều quan trọng là bỏ anh em trên Mụ nus về đây không phải để nghỉ ngơi nghe.
Cái ghế mục gật gật ra ý hiểu , và đồng tình nữa, vẫn không nói thêm gì khiến Phước cụt hứng.
Đợt “nghỉ ngơi cho khỏe” đó kéo dài suốt ba tháng. Chẳng phải chờ để đi học, cũng chẳng phải chờ để đề bạt. Cứ chờ để mà… chờ.
Thực ra, chỉ qua một tuần “ngồi chơi xơi nước”, đến mấy cửa mà Phước đoán là “biết chuyện” nhất, chứng kiến cái không khí vẫn lịch sự, vẫn ra vẻ chân tình nhưng, với con người luôn “nóng bỏng” như Phước, anh nhận ngay ra cái hơi lạnh giá toát ra từ những cuộc tiếp xúc ấy. Linh cảm cho Phước biết là có chuyện gì đó rồi. Linh cảm ấy càng khẳng định hơn khi Phước xin trở lại tiểu đoàn đang giữa những ngày gian khổ nhất ở miền Tây thì bị từ chối, với lý do cũng đơn giản là đã có tiểu đoàn trưởng mới. Phước yêu cầu làm một cán bộ thường, thậm chí một đội viên cũng được, vì anh không quen và không thể quen ngồi chơi giữa những ngày bạn bè và cả thành phố đang ngập đầu vào công việc như thế này. Người ta lại cười, đối với anh, bố trí như vậy sao tiện.
Phước bật cười. Cười hơ hớ… Thường thế, cứ khi nào tới đoạn thắt ngặt nhất thì giải pháp đơn giản nhất luôn đến với anh. Phước quyết định gặp chính Bí thư thành ủy, người trước đây đã trực tiếp kết nạp anh vào Đảng trong những ngày hoạt động bí mật. Đăng ký mấy lần ở văn phòng, Chánh văn phòng trả lời vẫn chưa “xếp lịch làm việc” được, lại cũng không hẹn dù cho cái hẹn đó còn lâu dài, Phước biết chính Bí thư thành ủy cũng tránh gặp mình. Phước quyết định, vào nửa đêm trời mưa to – thời điểm dứt khoát ông có nhà – đến gõ cửa.
Chính Bí thư thành ủy ra mở cửa, vì trong nhà chỉ còn ông là người đang thức làm việc vào cái giờ hiu hắt đó mà thôi.
Ông không ngạc nhiên trước việc xuất hiện kiểu này của Phước, thậm chí phong thái đêm ấy của ông khiến Phước nghĩ rằng, thậm chí có thể ông đã đoán biết tiếng gõ cửa lúc ấy chỉ có thể là của Phước. Nhưng ông không vồn vã, chỉ lặng lẽ đưa khăn bông lớn cho Phước lau khô người, pha trà nóng mời Phước uống, rồi lại lặng lẽ ngồi trước mặt Phước, ngước nhìn đâu giữa mông lung và liên hồi rít thuốc. Không khí ấy bất giác khiến Phước ấm lòng.
- Anh cũng tránh tôi nữa sao?
- Không tránh – Nhưng mình chưa muốn gặp.
Ông lặng lẽ đứng dậy. Sự thẳng thắn đã bắt đầu giữa họ. Nên căn phòng ấm hẳn. Và, như tôn trọng cuộc sống đêm cần tuyệt đối yên tĩnh, họ nói với nhau rất ít từ, như thì thầm của tháng ngày bí mật.
- Anh không tin tôi ư?
Câu hỏi thật giản dị nhưng nhìn thái độ trầm tĩnh, từ tốn của Bí thư thành ủy lúc này Phước biết câu hỏi của anh sẽ không được trả lời, thậm chí sự không trả lời ấy đã dự tính sẵn trong óc ông trước khi đối diện với Phước. Cái gì đã diễn ra, đã thay đổi trong người cán bộ Đảng một thời anh kính trọng này? Tại sao con người rất hiểu anh lại không đứng ra lý giải giúp anh nếu có, và chắc đang có, điều gì hệ trọng đang giáng xuống đời anh? Mà là chuyện gì kia?
- Điều duy nhất mình có thể giúp cậu lúc này – Ông kéo Phước về phía cửa – là thúc đẩy điều gì nhập nhằng sẽ mau rõ ràng ra.
Ông ấy muốn kết thúc câu chuyện và muốn đẩy Phước về.
- Với Cách mạng, với nhân dân, không có điều gì tôi không rõ ràng cả. Anh cũng không tin điều ấy sao?
- Mình cũng cầu mong như vậy.
Lần này ông nắm chặt tay Phước – Nhưng bỏ ngay ra và quay lưng đóng cửa lại.
Chính sau cuộc gặp Bí thư thành ủy đêm ấy, Phước đã khẳng định rằng, tình thế lạ lùng này chỉ có thể liên quan hai lần ở tù của anh, đặc biệt liên quan tới Larry, đúng hơn là về kế hoạch mà Larry đã từng lôi kéo anh kèm theo sự dọa dẫn nếu anh từ chối.
Lẽ nào một âm mưu của địch, mà lúc ấy anh cười khinh cho là trò chơi con nít, lẽ nào cái trò chơi may trúng rủi trật ấy, cái trò chơi xổ số ấy lại có giải thưởng độc đắc cho thằng Larry? Lẽ nào đôi mắt tinh tường của Cách mạng, thường như có đeo chiếu-yêu-kính trong cuộc đối đầu với địch thủ, lại không nhận ra những âm mưu giản đơn abc như vậy? Lẽ nào, lẽ nào, lại lẽ nào. Những cái lẽ nào nghịch đời, mà cứ dần dà thắt ngặt đời Phước, vào một thời điểm tưởng phơi phới nhất của anh.
Tuy nhiên, anh cũng thầm cảm ơn Bí thư thành ủy, chắc có bàn tay của ông, nên cuộc gặp của anh với cơ quan phản gián đã sớm diễn ra.
3
Họ mời anh lịch sự: suốt cả tuần ở nhà khách đặc biệt, nội thất như ở một khách sạn sang trọng, cơm bưng nước rót chu đáo với mức ăn cao, nhưng kín đáo tuyệt đối. Phước không được rời khu vực ấy “để làm việc liên tục”. Mà liên tục thật. Ngày hai, ba buổi khiến Phước mệt bã ra. Có buổi đã thực sự là những cuộc đấu khẩu quyết liệt. Vì vậy, Phước vẫn coi đó là bảy ngày bị tù, oái oăn thay, bị ngồi nhà tù của cách mạng!
Người nói chuyện chính với Phước trong những ngày đó là đại úy Hoài.
Nhập cuộc, hình như viên đại úy khá thẳng thắn khi đi ngay vào giai đoạn mà trước đây Phước tự hào nhất trong cuộc đời của mình nhưng những ngày qua bỗng khiến anh ngại ngùng nhất, giai đoạn bị địch giam cầm. Viên đại úy từ tốn giải thích mục đích cuộc làm việc là có “một số vấn đề phức tạp” của những tháng ngày trước đây, liên quan trực tiếp đến cuộc đấu tranh còn rất quyết liệt giữa địch và chúng ta hiện nay rất cần đến sự giúp đỡ của đồng chí… Đến chữ đồng chí mà trái tim nhạy cảm của Phước đã nhận ra sự gượng gạo trong giọng nói của viên đại úy. Nhưng chính sự nhận ra cái giọng từ tốn ở cả những từ ngữ quan trọng nhất đã khiến Phước lại nhận ra tiếp điều thứ hai: viên đại úy đọc một bài viết sẵn trong trí nhớ, viết sẵn từng chữ. Điều đó tiếp diễn suốt hai ngày đầu: xin bắt đầu từ vụ địch bắt anh năm Bảy mốt, trong vụ chống độc diễn, vâng, nhưng xin anh kể tỉ mỉ cho, càng tỉ mỉ càng tốt, từ trước vụ chống Thiệu cắt băng khánh thành cầu Mới… Điệp khúc “xin anh kể tỉ mỉ cho” lặp đi lặp lại hoài hoài, đến buổi sáng thứ ba thì Phước phát nôn nao như bị uống thuốc xổ giun liều mạnh, khó chịu rời ghế đứng dậy:
- Thôi, đại úy hỏi huỵch toẹt vô vụ Larry muốn lôi kéo tôi cộng tác với chúng nó đi, đừng vòng vo tam quốc nữa!
Đại úy cũng vụt đứng lên, một thoáng long lanh trong đôi mắt đầy tự tin. Đợi cho Phước trấn tĩnh lại vào trở lại ghế, đại úy ngồi xuống theo. Giọng viên đại úy chợt nhỏ hơn.
- Hãy gọi tôi là Hoài.
Một thoáng im lặng, như để hiểu thực chất của lời đề nghị, Phước rướn người qua cái bàn phủ mica rộng:
- Hoài à, các anh nghi ngờ tôi ư?
Hoài như bị câu hỏi đẩy ra khỏi ghế ngồi, đứng lặng lẽ và lặng lẽ rời xa bàn làm việc đi lại như để giấu sự bối rối. Đến lúc này Phước mới thực sự quan sát viên đại úy và anh gần như quá sửng sốt: mái tóc dày lượn sóng đen mượt, lông mày như nét vẽ thủy mặc, nước da trắng và nụ cười quá chừng hiền hậu và tươi. Một người đàn ông quá đẹp, với giọng Hà Nội luyến láy như hát, phong thái lịch thiệp và tự tin. Một người như thế, lại khoác áo đại úy cái ngành “chết khiếp” này, dù đang đi lại trước mắt đó, Phước vẫn thấy có một cái gì thật khập khiễng.
Dù hỏi vậy, hỏi để được nghe trực tiếp sự lý giải, để sờ cho được mức nóng lạnh của sự đời, chứ Phước biết đã đến ngồi ở cái phòng này thì chuyện lẫn lộn đã tới mức nghiêm trọng. Từ trong sâu xa của một ý chí quật cường và kiêu hãnh đã hun đúc thành sức mạnh để sống, để đấu tranh qua bao tháng ngày gian khổ của cuộc đời Phước, từ chất của ý chí ấy đã có lúc bật lên một thách thức: Không nói gì hết, không tường trình gì hết, cây ngay không sợ chết đứng! Ta không thể tiếp tay cho những người nhân danh bảo vệ cách mạng nhưng thực ra là bộc lộ một cách thê thảm sự mất lòng tin ở nhân dân, mất lòng tin ở đồng chí đồng đội và chính loại người đó vẽ lên một chân dung cơ quan phản gián cách mạng, chân dung tổ chức Đảng quá chừng kém cỏi.
Nhưng con người trước mặt Phước kia, có phải là loại “họa sĩ” đó không? Hình như phải và hình như… không phải. Bất chợt Phước nhớ đến Larry. Hay anh ta cũng lại giống Larry: anh ta không thể nói chính kiến của riêng mình trong khi thi hành công vụ? Rõ ràng, dù sao Phước cũng đã dồn Hoài vào chân tường với câu hỏi đó. Ít ra là Phước đang nghĩ như vậy, rồi bất giác nở một nụ cười chua cay.
- Phước có tin ở bản thân mình không? – Hoài đã đứng đối diện, nhìn thẳng vào mắt Phước.
- Ông nói sao?
- Nếu Phước tin ở bản thân mình thì không nên hỏi tôi câu đó.
Buổi làm việc cũng kết thúc cùng câu nói mà mới nghe, hoàn toàn Phước không hiểu. Và Phước càng không hiểu hơn khi, suốt những buổi làm việc sau đó, Hoài hoàn toàn không động chạm gì đến Larry và mọi tiếp xúc, quan hệ giữa anh và hắn trong những ngày ở tù. Gần như phần lớn những người mà Hoài muốn tìm hiểu, Phước đều bất ngờ, hoặc lâu nay ít quan tâm, thậm chí hoàn toàn không hay biết gì hết, ở tận cả vùng mà hiếm khi Phước lui tới.
Suốt một thời gian dài sau đó, tình thế của Phước cũng chẳng được sáng sủa gì mà ngược lại, trầm trọng hơn. Thường vụ thành ủy đã chính thức thông báo cho Phước biết, có “một số khúc mắc” trong thời gian ở tù mà hiện nay các cơ quan có trách nhiệm dù đã và đang cố gắng vẫn chưa tháo gỡ được, theo quy định về bảo vệ trong sạch nội bộ của tổ chức Đảng trong tình hình phức tạp hiện nay, Phước phải tạm nghỉ sinh hoạt Đảng và trong tình cảnh như vậy, công việc chính quyền cũng tạm nghỉ một thời gian “thích hợp”. Số “Đảng viên phong trào” phải tạm đình chỉ sinh hoạt vì “có một số khúc mắc chưa tháo gỡ được” như Phước, cộng với số kết nạp trước đây “không đúng thủ tục quy định” bị xóa tên, đã lên đến hơn hai chục. Phước xót xa chua cay cho mình một phần nhưng nỗi tê tái trước một tình cảnh lại dày vò anh nhiều hơn. Phần lớn anh em lại đều kiểu bất cần “quân tử Tàu”, cứ “cây ngay không sợ chết đứng”, không thanh minh, không lý giải, thậm chí thách thức và phát ngôn không chính xác khiến tình hình đã phức tạp lại càng phức tạp hơn. Sự phức tạp có thể ngay tức khắc biến thành nghiêm trọng khi, trong số đã từng là “đồng chí” không phải không có kẻ xấu giả mạo, không phải hồ sơ nào của địch “để mất”, “để sót” lại cũng đều là hồ sơ giả. Trong lúc đó, số cán bộ có trình độ, có hiểu biết thực tế hoạt động nội thành trước đây lại rất ít, có thể đếm trên đầu ngón tay, còn phần lớn lại “mới rợi” từ miền Bắc vào chi viện sau ngày giải phóng, mà không ít trong số đó rờ đâu nghi có địch nấy, gặp cô gái nào cũng nghi là điếm!
Việc Phước đạp xích lô cũng là chuyện bất ngờ. Gia đình bác xích lô bên cạnh đi kinh tế mới Buôn Hồ, phải bán tất cả những gì không thể mang theo. Phước là con người hoạt động, một ngày nằm dài thườn thượt cứ có cảm giác chân tay như sắp nổi rêu xanh. Một nỗi chán ngán, mệt mỏi như một tiếng thở dài choán ngợp tâm trạng Phước, len lỏi vào tận xương tủy Phước. Để thoát khỏi tình trạng chưa từng gặp phải đó trong đời mình, Phươc mua chiếc xích lô của bác hàng xómg. Anh em, bạn bè phản đối tưng bừng vì cho rằng làm như vậy là “bôi bác phong trào”. Cán bộ có trách nhiệm, kể cả Bí thư thành ủy có nhắn tới, là đừng làm cái việc “bôi bác cách mạng” đó, đừng bất mãn kiểu đó.
Phước không nghe tất cả lời khuyên ấy với lý do cũng rất giản dị: Phước không muốn chết mục ruỗng bởi sự ăn không ngồi rồi, còn la cà hết quán cóc này tới tiệm kem nọ nói chuyện ba zẻm, tán láo và chửi đổng, anh đều ngán ngẩm và kinh ngại.
Một buổi tối, như vẻ có công chuyện đi ngang qua nên tranh thủ tạt vào nhà Phước, Hoài cũng khuyên anh vài lời như bạn bè khuyên lâu nay. Nhưng nghe Hoài nói, Phước cảm giác đó là mấy lời “cho phải đạo”, hình như không phải là chủ ý của việc Hoài “bất ngờ” tạt vào thăm Phước. Khi hai người chia tay ngoài sân, Hoài nói:
- Tôi mong Phước luôn bình tĩnh. Vấn đề khá rắc rối.
- Tổ chức của Hoài nhắn tới tôi câu đó à?
- Của tôi.
- Riêng của Hoài?
- Từ nỗi đau đớn xót xa của đời một người bạn thân thiết nhất của tôi, tôi nói điều đó với Phước.
Không biết giọng nói Hoài trong không gian đêm ngào ngạt hương ngọc lan của vườn nhà hay sự hé mở một tâm hồn nơi Hoài đã khiến trong lòng Phước có một thoáng xao xuyến. Phước chợt nhớ lạ đôi điều mới biết sau này về Hoài: Người con trai Hà Nội đó đã lặn lộn ở vùng ngoại ô, đã chịu nóng lạnh của phong trào thành phố từ trước ngày giải phóng.
* * *
Mấy người bạn từ tiểu đoàn về, đem theo không khí bụi bặm và hoang sơ của rừng núi, khiến cho không khí trong căn nhà độc thân của Phước bớt cái lạnh lẽo được suốt một buổi chiều và qua đêm.
- Sắn ở đây thiếu giống chi mà tụi bây tự hành xác mình vậy? - Phước lắc đầu nhìn bao tải sắn vừa từ trên vai một anh vẻ lực điền hất ịch xuống giữa nền nhà – Cả sân Ngọ Môn cận quanh Đàn Nam Giao… cũng bị cuốc lên trồng sắn, sắp thành “kinh đô sắn” không biết à?
- Dư biết! – Cậu “lực điền” vừa lau mồ hôi vừa vừa toét miệng cười – Nhưng đây là sắn của tụi em trồng – Mà không, có cả công anh phát bụi và dẫm miểng bom què cẳng một dạo đó – Ăn một chút “tình rừng” chớ.
Phước cảm thấy vui. Và lại đùa:
- “Chút tình rừng” thì một hai củ là cành càng bụng dạ rồi, cần chi cả tạ…
- Bộ anh tính ăn một mình sao? – Cô gái trẻ, thân tròn như hột mít, đang gỡ nút ba lô con cóc, bất giác phát bẳn – Cái xóm nhà lá này cho mỗi nhà vài củ đã đủ chưa? Bộ ở đây thôi màn ca nhạc “độc lập tự do ăn bo bo thế gạo” rồi à?
Nói xong, cô vào bếp lục tìm cái rổ nhựa và cả cái xô xách nước đem lên, đặt chịch xuống giữa nhà, làm mặt giận, dốc từ trong ba lô con cóc ra không biết cơ man nào là rau xanh, giọng dấm dẳn:
- Chê rau tập tàng này nữa đi! Mấy đứa trong tiểu đoàn bộ đi “bình định” gần cả cánh rừng suốt buổi sáng để kịp tụi này đem về cho anh đó.
Phước ngồi ngẩn ra giữa căn nhà lộn xộn sắn khoai rau rang, giữa cái mùi “mồ hôi rừng” nồng hắc thật khó lẫn của mấy đứa “em út phong trào”, giữa cái chất thiệt-lòng với nhau, thiệt lòng với đời của họ, cho dù cơ cực………ai, cho dù sốt rét thương hàn, cho dù đã từng có công trạng mà mãi vẫn không ai đoái hoài, cho dù bao cảnh bao chuyện khiến lòng dạ nhức buốt…, thì họ vẫn trọn vẹn với nhau, trọn vẹn với anh, như những ngày anh còn sống chung với họ ở rừng miền Tây. Họ vẫn nhớ đến cả cái thú ăn rau tập-tàng của Phước. Và điều quan trọng hơn là biết anh đang buồn khổ, họ về thăm anh chiều nay, đêm nay thôi để sáng sớm mai trở về đơn vị. Ôi chao là cái tiểu đoàn thanh niên xung phong của anh, chẳng biết người ta lập ra để làm gì. Ném lên cái xó rú miền Tây ấy khai hoang giữa lúc ngay ở thành phố này, ngay giữa vùng đồng bằng này cũng còn biết bao công chuyện. Không biết cái chủ trương đó trúng trật và sẽ hiệu quả chừng nào, chỉ biết tổ chức cách mạng hô ở đó đang là “trận tuyến”, đang là nơi khó khăn của ngày hôm nay, chỉ cần chừng đó, hàng ngàn cánh tay trẻ trung của thành phố đã rần rật giơ lên.
Quanh nồi cơm chiều hấp sắn, canh tập tàng tôm tươi, cân thịt ba chỉ vừa mua ở chợ xép với tôm chua dưa giá, bữa ăn của bốn anh em họ thật tưng bừng. Người nào người nấy rịn mồ hôi trán và chảy tràn nước mắt vì cơm nóng canh nóng, vì chùm ớt xanh chấm ruốc tươi ăn rau ráu, vì cái tình đồng đội nóng lạnh có nhau. Ăn xong, cô bé “hột mít” xin phép tạt qua nhà bên Thành Nội một chút rồi quay lui. Phước giục hai anh kia tranh thủ về nhà để khuya kịp lên lại đơn vị thì cả hai đều gạt đi, họ nói cần thì “nửa đêm gà gáy” họ tạt qua nhà một chút cũng được. Đến đây thì Phước hiểu rằng, ba cô cậu này được tiểu đoàn giao nhiệm vụ về thăm và “làm công tác tư tưởng” mình đây. Anh cười thầm với một tâm trạng vừa ấm áp vừa buồn lạnh.
Ba anh em trải chiếu giữa sân và bày bình rượu đế cùng mấy xấp thịt nai rừng khô ra.
- Con nai bắn được tháng trước, để dành phần anh đây.
- Nào, chúc may mắn cho tất cả anh em bạn bè!
Uống cạn gần nửa bình rượu rồi và mấy nhà hàng xóm đã sập cửa tắt đèn đi ngủ rồi, ba anh em vẫn không ai nói một lời. Mỗi người thả suy nghĩ của mình theo dòng sông riêng của mình. Dòng sông của Phước là một dòng sông rừng. Nó chảy ngược, chảy ngược lên thượng những vai núi xếp tầng xếp lớp những khộp đá khổng lồ. Những thân đoác cổ thụ che rợp cả rừng đá. Ngược lên nữa, khi mây đặc quần tụ dưới các tán lá và quấn quýt quanh người như từng vắt sợi bông thì một quầng sáng bạc và ra và đỉnh núi đã ở nơi bước chân họ. Đỉnh núi là một khoảng rộng tròn vừa vặn cho cả tiểu đoàn thanh niên xung phong thẫn thờ đứng mặc niệm cuối buổi chiều ấy. Dưới chân họ toàn đá trắng và bầu trời đỏ rực như máu. Chính giữa đỉnh núi, chính giữa đội hình tiểu đoàn là một ngôi mộ xếp đầy những tảng đá trắng nhất cùng cả hàng trăm nắm hoa rừng. Bó hương dưới phố vừa kịp gởi lên, tỏa khói nhè nhẹ, uốn lượn quanh mồ như một tiếng nấc thầm, rồi vờn nhập vào biển mây trắng của rừng già.
Người con gái đẹp tuyệt vời ấy rời mái trường thành phố lên rừng vào nướch ngày tan nát nhất của phong trào nội thành sau Mậu Thân. Cũng lại là những tháng ngày cơ cực, gian nan nhất của chiến khu. Các cơ quan cứ rút lui, rút lui, rút lui… Các đơn vị cứ chạy dài.Tất cả lần lượt bồng bế nhau lên tới tận biên giới Việt – Lào. Nhưng hậu cần thành phố không thể lên chỗ năm non ấy được. Phải cằn về, phải cắn răng trụ lại giáp ranh. Và bom trùm xuống tàn sát. Biệt kích chôm chụp, tập kích triền miên. Và đói. Rau dại cũng chẳng còn cọng ở giải giáp ranh, cây cỏ chết ngặt hết từ lâu vì chất độc và bom phát quang. Đây đó đã có người chết đói. Nhưng người con gái ấy vẫn đi lại giữa rừng cháy, vẫn qua về các cơ quan, vẫn xinh tươi rực rỡ với nụ cười mê hoặc trên môi. Cứ như nàng sống và cười bằng khí trời bất diệt. Nàng là bông hoa rừng cháy, là niềm vui của cả chiến khu, và nàng như một sự gọi kêu của thành phố thân yêu giục những đứa con trai con gái hãy mau trở về. Nhưng một trận bom tàn mạt đã dày nát bấy cơ quan nàng. Căn hầm chữ A thành nấm mồ của nàng và năm đồng đội. Ngày ấy, người yêu của nàng đang lặn lội ở vùng sâu, ở nội ô để móc nối lại phong trào. Anh là một thành ủy viên trẻ, trước đó là một sinh viên khoa học. Họ quen và thân nhau từ những ngày ly khai của khu chiến thuật 11. Bảy tháng sau, người con trai ấy có dịp trở lại rừng, anh xin tổ chức và rồi để ba ngày liền đi tìm nơi an nghỉ của nàng. Anh nhận ngay ra nàng: giữa lổn nhổn xương cốt cái còn cái đã thành đất là lả tả mấy hạt cúc tím của chiếc áo len nàng đã mặc suốt từ mùa thu qua hết mùa xuân lạnh lẽo của chiến khu. Anh lặng lẽ chôn cất nàng, không để cho bất cứ ai giúp mình làm việc đó, cũng như đã lặng lẽ tìm kiếm, đào bới, như một cái bóng kỳ bí của núi rừng đang đào bới một hồn thiêng. Không khóc, không hề có một giọt nước mắt nào chảy ra, anh đứng trước nấm mộ suốt cả nửa buổi chiều còn lại ấy, để cho nước mắt chảy vào lòng. Anh lấy một chiếc cúc tím đơm lên áo mình, ở chỗ gần trái tim, rồi ngay đêm ấy anh lặn lội trở về vùng sâu.
Ngày tiểu đoàn thanh niên xung phong lên miền Tây, người con trai ấy đã nhờ Phước, nếu có điều kiện thì đưa giúp mộ nàng về thành phố, trước khi đưa về làm ơn báo cho anh hay. Theo sơ đồ của chính tay anh vẽ và anh đã giữ trong ngực mình bao năm trời, Phước và anh em đã tìm ra ngay ngôi mộ. Nó ở ngay trong khu vực trú đóng của tiểu đoàn. Nhưng toàn tiểu đoàn và Phước đã không đưa mộ nàng về thành phố. Ở đó, nghĩa trang liệt sĩ đang xây dựng dở dang. Nhưng điều hệ trọng nhất không phải là điều đó, mà câu chuyện bình dị ấy đã làm cho tất cả trái tim trong tiểu đoàn thổn thức. Họ đã âm thầm kết nạp nàng vào danh sách tiểu đoàn. Nàng vẫn còn sống. Vậy thì nàng phải ở đây, giữa lòng tiểu đoàn anh em bạn bè của nàng đây. Cho đến một ngày đơn vị hoàn thành sứ mạng ở miền Tây thì nàng mới cùng về với anh em. Ngày ấy, cả thành phố Huế sẽ mỗi người một bông hoa tím sẽ ùa ra cửa ô đón nàng và chúng ta.
Họ đã đưa nàng lên đỉnh núi trắng của rừng già chiều ấy.
- Anh đang nghĩ đến nấm mộ trắng phải không? – Một người hỏi.
- Còn các cậu?
- Bọn em nghĩ ngày đưa chị ấy về phải tổ chức thật đẹp anh ạ.
- Đẹp?...
- Có báo cho “ông ấy” không anh?
Một thoáng xót xa trong lòng Phước: ông ấy có con nhớ đến những tháng ngày ấy không để mà báo tin đi rước nàng về?
Người con trai có mối tình lặng lẽ và thiết tha với Bông-hoa-rừng-chiến-khu ngày ấy chính là Bí thư thành ủy bây giờ...
T.N.V