Nhà văn TRẦN KIÊM ĐOÀN
- Details
- Published Date
- Written by Võ Quê
- Hits: 11343
Tác phẩm của nhà văn TRẦN KIÊM ĐOÀN
BẾN TẦM XUÂN
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. Bỗng có một vị sơn tăng – như thiền sư Mãn Giác (1090) chẳng hạn – huơ tay, mỉm cười, tầm nhìn hướng ra ngõ vắng đầy sương, ánh mắt bắt gặp một cành mai hôm trước và kêu lên hồn nhiên:
“Đình tiền tạc dạ nhất chi mai!”
Đừng tưởng Xuân tàn hoa rụng hết,
Hôm qua sân trước, một cành mai.
Tiếng chổi trong tâm của người quét lá sân chùa vọng lại:
Đừng tưởng tuổi già răng rụng hết
Bảy mươi còn mọc chiếc răng khôn.
Cái “tưởng” là một định kiến ước lệ, khô cằn; trong khi hiện thực là dòng tươi mát, trôi chảy thường hằng. Thiền sư và người quét lá sân chùa chẳng có gì khác nhau. Chỉ có một lằn ranh chưa gặp. Nhưng rồi có thể gặp nhau trong nháy mắt; một lúc nào đó sẽ gặp; hay không bao giờ gặp: Tri giác và Tuệ giác.
Mai nở sớm hay mai cũ của mùa Xuân năm trước là câu hỏi theo cái nhìn cảm giác đời thường. Nhưng với sự tinh anh từ ánh mắt đang phóng nét nhìn lạnh cả hư không, về thế giới hư huyễn – mà chữ nghĩa nhà Phật thường gọi là “quán niệm vạn pháp vô thường” – thì đó chẳng phải là cành mai mới cắt trong vườn nhà ở làng Hương Cần, vác qua Huế bán ở chợ hoa ngày Tết Thương Bạc mà là cành mai “thật”, cành mai tinh túy mang bản chất của mọi cành mai từ cổ sơ đến hôm nay và mãi mãi.
Dựa theo thơ của danh tăng Ashi Zumi, phái Tào động Nhật Bản thì có thể nói như thế này: Cắt một nhành mai hình tướng. Cắm vào bình thủy tinh. Có một cành mai thể tánh. Ẩn trong lòng biển xanh. Phải chăng như Mẹ là hình tướng mà Tình Yêu cao tuyệt vô biên của mẹ cho con là thể tánh? Mẹ không còn nữa, tình yêu của mẹ ẩn trong lòng biển xanh.
Như ngày xưa, cụ nghè tam nguyên Yên đổ Nguyễn Khuyến cũng nhìn thấy: “Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái. Một tiếng trên không ngỗng nước nào?!” Nhưng đây là cái nhìn thông qua cảm xúc, tri giác. Có người hỏi: “ Văn chương tự cổ vô bằng cớ. Văn chương từ xưa là sản phẩm của cảm xúc nên không có bằng cớ gì cả. Vậy thì căn cứ vào đâu để nói Nguyễn Khuyến không là một thiền sư như Mãn Giác của hơn nghìn năm trước?” Hình như chỉ có một sự khác nhau rất nhỏ. “Hình như” vì bạn và ta, và cả vũ trụ vô biên nầy đều giả tạm, huống chi là một dòng tư tưởng mơ hồ (?!). Thiền sư Mãn Giác nhìn vạn sự qua nét nhìn tĩnh lặng mà như xoáy vào nhịp biến dịch thành trụ hoại không. Cụ nghè Nguyễn Khuyến nhìn đối thể với sự hồ nghi chất vấn. Còn hồ nghi sẽ thiếu vắng một nụ cười tuệ giác.
Mấy chùm trước giậu “hoa năm ngoái” của Nguyễn Khuyến là hình tướng mà cành mai “đình tiền tạc dạ” của Mãn Giác là thể tánh. Mai nở thông qua cái nhìn tuệ giác – Tuệ giác mùa Xuân.
Nụ cười, tuệ giác và mùa Xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành một nguồn vui trong mơ ước. Nhân gian ai lại không thích nụ cười; ai mà chẳng muốn mùa Xuân. Muốn hái nụ tầm Xuân và tắm bến tầm Xuân nhưng chẳng biết mặt mũi cái “nụ xanh biếc” hay cái bến vạn lý sơ xưa đó như thế nào và ở chốn nào. Tìm đâu cho gặp khi nó ở chính trong ta. Nó là tiếng pháo khi vui, sương khói khi buồn, đóa hoa khi yêu và nỗi đau khi ghét. Khi tìm nỗi lòng trên sông núi thì chính sông núi là nỗi lòng. Ngay khi hết một đời buồn vui, xuôi tay về đất; người ở lại thì khóc bù lu bù loa, thế mà người ra đi vẫn muốn cười, tuy hơi làm biếng hả miệng: Ngậm cười nơi chín suối!
Tôn giáo ra đời cũng chỉ vì nhân gian thích nụ cười vĩnh cửu. Tâm lý muốn lên Thiên Đàng, hay về Niết Bàn cũng chỉ vì… ham vui! Một tâm thức không còn ham vui là đã bị đóng băng trong khổ đau và phiền não. Mọi hồng ân cứu rỗi hay độ trì đều chẳng còn tác dụng gì lên sỏi đá. Bởi vậy, những thế giới hứa hẹn của các tôn giáo sau khi chết mà không có những an lạc vĩnh hằng, yên nghỉ đời đời, chim trời ca hát, nhạc trời véo von, niềm vui vĩnh cửu, hoa thơm cỏ lạ bốn mùa thì hết thảy những người thích cười sẽ “trả lại vé” đã mua với giá một đời tin cẩn, mong cầu niềm vui cho chuyến xe thổ… mộ cuối cùng!
Người theo đạo Phật thể hiện giấc “mơ vui” của mình qua hình ảnh đức Phật Di Lặc. Theo niềm tin và tín lý nhà Phật thì có ba đời, mười phương Phật. Có hằng hà sa số chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Thích Ca Mâu Ni là đức Phật của thời hiện tại trong cõi Diêm Phù Đề mà chúng ta đang ở. Đức Phật tương lai của cõi người nầy sẽ là Phật Di Lặc (Maitreya: Gốc chữ Phạn Maitri, có nghĩa là từ bi, yên vui) là một vị đại bồ tát đang ngự ở cung trời Đâu Suất. Nếu chỉ riêng Việt Nam ta cũng đã có gần cả trăm kiểu cười, cách cười và nụ cười khác nhau thì thế giới cũng nhìn về biểu tượng yên vui của đức Phật Di Lặc qua nhiều dáng vẻ phong phú như thế.
Tuy đạo Phật có nhiều bộ phái và pháp môn khác nhau, nhưng hình ảnh Phật Di Lặc vẫn trở thành một ước vọng chung tràn đầy niềm vui và hạnh phúc ở chân trời tương lai. Đức từ bi của Phật Di Lặc được biểu hiện qua nhiều hình tướng khác nhau, tương hợp với điều kiện và hoàn cảnh xã hội, bản chất con người và đặc tính văn hóa của từng xứ, từng vùng.
Qua những tượng đài và kinh văn Ấn Độ thì Phật Di Lặc là hiện thân của từ bi và trí tuệ với dáng vẻ minh triết, trầm tư. Với Tây Tạng, Tích Lan thì Phật Di Lặc là hóa thân của sự tái sinh an lạc và huyền nhiệm với dáng vẻ đẹp đẽ cao cả và huyền bí. Nhưng tới đất Trung Hoa thì Phật Di Lặc là biểu trưng của sự hoan hỷ, phong phú, mãn nguyện với nụ cười khoan khoái, sắc diện béo tròn, thân đầy, bụng phệ, lúc nào cũng sẵn lòng dang tay đón nhận mọi người. Dưới ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài của kinh điển toàn bằng chữ Hán từ Trung Hoa du nhập vào nước ta (Hán tạng), hình tượng đức Phật Di Lặc ở Việt Nam vẫn chưa đạt được một bản sắc thuần Việt của tinh thần “ Nam quốc sơn hà Nam đế cư”. Cũng là Nụ Cười Di Lặc, nhưng bản chất văn hóa “cung hỷ phát tài” của Trung Quốc làm mất đi tính chất tuệ giác của nguồn suối mơ ước tâm linh. Nhiều nơi lẫn lộn giữa Phật Di Lặc và ông Thần Tài. Thậm chí, khi mang ảnh tượng đức Di Lặc của Việt Nam và Trung Quốc sang các nước Âu Mỹ thì trở thành những ông Phật Mập (Fat Buddha), Phật Cười (Laughing Buddha), Phật Phát Tài (Lucky Buddha) hoặc những hình thức tương tự để trang trí quanh những bồn hoa, hồ cá ở vườn sau.
Từ bi là lòng thương không mù quáng, trí tuệ là sự hiểu biết không cực đoan và hoan hỷ là niềm vui không dung tục. Tuy nhiên, qua lăng kính Đại Thừa của Phật giáo Trung Hoa – được đâm chồi nẩy lộc trong khung cảnh xã hội nông nghiệp và buôn bán nhỏ, giữa hoàn cảnh văn hóa Khổng, Lão và phiếm thần dân gian làm xương sống tâm linh – phật Di Lặc trở thành biểu tượng của sự hoan hỷ, sung mãn, hạnh phúc mang tính phàm trần, thực dụng. Vì con người tạo ra tôn giáo; chứ không phải tôn giáo tạo ra con người nên con người có quyền chối bỏ tôn giáo, nhưng tôn giáo không thể chối bỏ con người. Cho nên, không ít người đã chơi trò dung dăng, dung dẻ với quyền tự do tâm linh để trói buộc chính mình và người khác vào một sự dính mắc trầm kha như bệnh dịch hạch. Chỉ riêng trên đất Trung Quốc từ thế kỷ thứ III đến nay, đã có tới con số hàng trăm nhân vật theo Phật giáo xuất gia và tại gia tự xưng là “hiện thân của Phật Di Lặc” giáng trần. Việt Nam ta cũng không thiếu những ông đồng bà vãi như thế. Nhưng tất cả con người và vọng động đều đến rồi đi như những hiện tượng chiến tranh, dịch họa.
Thật ra, đức Phật Di Lặc là tâm ảnh nói lên niềm hy vọng thường an lạc; là biểu tượng mong cầu cho một tương lai thịnh vượng, tươi sáng. Đời có bao nhiêu niềm ước mơ tốt đẹp thì sẽ có bấy nhiêu mẫu hình tướng của nụ cười Di Lặc. Nếu có chăng điều quan ngại thì nó sẽ không dừng lại ở mức độ hình tướng mà ở tác dụng của phương tiện. Nếu nụ cười “niêm hoa vi tiếu” của Ca Diếp là sự khai mở của tuệ giác, nhìn đóa sen trên tay Phật mà thấy hết tánh sen là tánh Phật; thấy ngó sen đang ở trong bùn vẫn theo dòng sinh diệt, lặng lẽ nhô lên khỏi mặt nước và có ngày nở rộ tỏa ngát hương thì nụ cười Di Lặc cũng sẽ “đồng nhất thể” tương ưng như thế. Đó là một nụ cười rất đẹp và trọn lành không phân biệt Bố Đại Hòa Thượng khi cho hay Thằng Bờm khi nhận.
Càng ngày, những nước văn minh Âu Mỹ càng nghiên cứu sâu rộng để tiếp nhận và trân trọng tinh thần phá chấp, từ bi và hóa giải của đạo Phật. Nhưng khác với người phương Đông, ngưởi phương Tây không còn ảo tưởng về vai trò “cứu rỗi” vô điều kiện của tôn giáo. Bởi vậy, họ tìm đến đạo Phật như một triết lý, một nghệ thuật sống và đồng thời là một tôn giáo. Một câu hỏi thường xuyên xuất hiện của những người Âu Mỹ mang nặng định kiến thần học phương Tây khi nhìn về đạo Phật là: “Đạo Phật là một hệ thống triết lý, một học thuyết vô thần hay một tôn giáo?” Người hiểu đạo (nói chung) trả lời không ngập ngừng: “Thưa, cả ba!” Nhưng cũng có người bị dị ứng với khái niệm “vô thần”. Dị ứng bởi vì tư tưởng bị đóng khung và lão hóa trong kiểu cách suy nghĩ duy lý và chủ quan gọi tên, dán nhãn hiệu của phương Tây. Nghĩa là chỉ biết khư khư định nghĩa “Thần” như là một đấng Sáng Thế toàn năng, một Vua Trời, một Thượng Đế. Mahatma Gandhi, người tin vào Thượng Đế Hindu, đã nhận xét: “Đạo Phật không phủ nhận Thượng Đế nhưng định nghĩa Thượng Đế theo một cách khác.” Đấng “Sáng Thế toàn năng” theo đạo Phật là “Duyên Khởi từ bản thể Tánh Không” như cách nhìn của nhà vật lý nổi tiếng nhất thời hiện tại, Stephen Hawking đã viết trong Sự Tạo Tác Vĩ Đại (The Grand Design).
Người phương Tây tìm đến cái đẹp của Phật giáo không phải qua hình thức lễ nghi, bái vọng với một tâm lý đột phá những vòng trói buộc của tín điều và tín lý. Họ đánh giá chân xác với lòng biết ơn Nụ Cười Di Lặc và tin rằng, một đức Phật tương lai sẽ đến như một sự tái khẳng định nếp nghĩ, lối sống hòa bình, an lạc và trí tuệ chứ không phải là để “tái sáng thế” đầy huyền nhiệm và bí ẩn của nếp tâm linh cổ sơ. Nếu quan chiêm những ảnh tượng của Phật Di Lặc trong những chùa viện Phật giáo phương Tây ngày nay, người ta sẽ thấy toát lên vẻ đẹp đầy nghệ thuật phảng phất hay rõ nét nụ cười toát ra từ bên trong. Những ảnh tượng Di Lặc với ngoại hình đầy hoan hỷ đậm nét “ thỏa thê trù phú” trong các chùa viện Việt Nam mô phỏng hay chỉ là phiên bản của Trung Quốc đang mất dần tác dụng giải thoát tâm linh trong thời đại mới.
Truyền thống người Trung Quốc dân dã khi gặp nhau thường chào câu đầu tiên: “Đã ăn chưa?” Ngày nay, kinh tế phát triển, cơm áo không còn là nhu cầu bức xúc hàng ngày thì tiếng chào cũng thay đổi dần như phương Tây không còn lo ăn mà lo vui, lo đẹp. Ước mong dáng vẻ Di Lặc cũng sẽ theo phong trào tập “Tai Chi” và “Fitness” mà trở nên thon thả, thanh lịch hơn trong những thế hệ tương lai. Đặc biệt là trong khung cảnh văn hóa Việt Nam, các chùa viện Phật giáo cần tìm cầu một biểu tượng an lạc của đức Di Lặc nói riêng và tất cả các tôn tượng, kiến trúc nói chung, phù hợp với bản chất dân tộc, văn hóa và tính độc lập, độc sáng của mình.
Năm mới, mùa Xuân là sức bật của tuổi trẻ, là điểm hẹn của tuổi trung niên và dấu ghi thêm một bước gần đất của tuổi già. Nhưng tinh thần... ham vui cũng giông giống như “tài không đợi tuổi”. Mong rằng, tinh thần nụ cười của tuệ giác mùa Xuân đang có sẵn trong mỗi lòng người sẽ đâm chồi nẩy lộc tự nhiên và dễ dàng như hoa lá quanh mình.
Natomas, tuần đầu tháng Giêng 2011
Trần Kiêm Đoàn
Sen Vàng Năm Mới
2011
Nhớ “Lotus” của Tagore [1]
.
.
Năm Mới mùa Đông
Sen ẩn trong bùn
Sen vừa mới nở
Mưa đêm bỡ ngỡ
Giọt đóa sen vàng
Trên bước lang thang
Nào ai hay biết
Chân trần mãi miết
Đi giữa đường thơm
Mùa Xuân mới chớm
Từ một giấc mơ
Đượm mùa sen nở
Mùi thơm gợi nhớ
Một thoáng hương đưa
Bướm nhỏ chùa xưa
Bụi mờ bóng khuất
Sen giữa mùa Đông
Chính là hơi thở
Trong tận đáy lòng
Sen vàng mới nở
Costa Rica, ngày cuối năm 2011
Trần Kiêm Đoàn
_______________________________
[1] Lotus
On the day when the lotus bloomed, alas,
my mind was straying, and I knew it not.
My basket was empty and the flower remained unheeded.
Only now and again a sadness fell upon me, and I started up from my
dream and felt a sweet trace of a strange fragrance in the south wind.
That vague sweetness made my heart ache with longing and it seemed to
me that is was the eager breath of the summer seeking for its completion.
I knew not then that it was so near, that it was mine, and that this
perfect sweetness had blossomed in the depth of my own heart.
Rabindranath Tagore
Em yêu mùa sen nở
Nhớ Gia đình Phật tử
Áo lam cài hoa sen
Thương bầy chim oanh vũ…
(Nhớ Mấy Mùa Sen. Trần Thị Diệu Phước, 1963)
Em Oanh vũ nữ với bài thơ dài, Nhớ Mấy Mùa Sen, đoạt giải nhất trong cuộc thi viết ngành Oanh của liên Gia đình Phật tử Thừa Thiên Huế năm 1963, nay đã là bà nội, bà ngoại ở lứa tuổi lục tuần. Đã 47 năm rồi tôi chưa gặp lại em, nhưng bài thơ xưa thì vẫn nhớ. Bài thơ hồn nhiên và trong sáng đượm màu Hoa đạo.
Cái đẹp hình tướng có thể tàn phai, nhưng cái đẹp của tư tưởng thì không phai tàn.
Năm nay…
“Mùa cherry, tôi đi tìm cú…!”
Nếu “cú” đây chẳng phải là cú pháp, là văn chương tuyệt cú mà chỉ là cú vọ, cú mèo, cú tráu… thì không biết cái hồn văn chương thiên cổ có bị phai tàn chăng?
Nhưng dẫu sao thì đó vẫn là sự thật.
Ở xứ Huê Kỳ cái gì cũng có, nhưng lại thiếu một mùa sen ngày Phật Đản.
Những năm qua, người Việt ở Mỹ thường chú ý mùa cherry trùng với mùa Phật Đản trên xứ nầy. Cho nên có nhiều người cho mùa cherry là mùa Quả Phật khi mùa sen nở là mùa Hoa Phật. Mùa Hoa Phật xứ Mẹ và mùa Quả Phật xứ Người.
Cherry - Mận đào |
“Cherry” – tiếng Mỹ có nghĩa là hoa anh đào; mà cũng là trái mận đào. Người Việt ở nước ngoài nói tới trái cherry thì ai cũng biết nhưng nói đến trái “mận đào” thì… hết biết luôn!
Quả mận đào nhỏ như trái bồ quân nhưng có tới 5 màu: Trắng, vàng, đỏ, tím và đen. Nghe nói trái mận đào mang tinh thần hoa đạo. Hoa đạo (Kado) là nghệ thuật cắm hoa truyền thống của Nhật Bản. Lịch sử Hoa đạo xuất hiện từ khi các thiền sư Trung Hoa đem đạo Phật vào đất Nhật từ thế kỷ thứ 6. Mỗi đóa hoa không có tự thể tánh. Hoa phải có sự hợp duyên của thiên nhiên mới thật là hoa: Một giọt sương long lanh, một chút gió phơ phất, một chú bướm vàng lãng đãng, một đôi mắt ngắm tự tâm hồn… thì hoa mới đẹp. Vì thế nghệ thuật Hoa đạo là “hoa trong ta và ta trong hoa” giữa khoảng trời thu nhỏ.
Giống mận đào gần với Hoa đạo vì cũng cần “hợp duyên” như thế. Nghe nói nếu trồng một cây thì thường không có trái; cô đơn ái dục vô tâm khởi, chăng (?!) Nên những tài tử cây kiểng thường ghép cả 3 loại mận đào – vàng, đỏ, tím – vào một cây. Mười năm trước, tôi trồng một cây mận đào ghép như thế ở vườn sau nhà. Chỉ 3 năm sau là cây bắt đầu có trái. Những trái mận đào nhỏ nhắn, mơn mởn chín mọng đủ màu, trĩu quả như những cành hoa. Vị ngọt, hương hiền, pha chút chua chua điểm làm duyên. Tôi thường hái lứa mận đào đầu tiên cúng Phật mà cứ mường tượng như những đóa sen mùa Phật Đản trên quê mẹ ngày xưa.
Năm nay, cây mận đào vườn sau ấy đã cao vượt quá mái nhà. Khu nhà mới Natomas nơi tôi ở, nguyên được xây dựng trên một cánh đồng trống bây giờ đã thành một rừng cây xanh nho nhỏ. Người Mỹ chỉ trồng loại cây có hoa và cây xanh gây bóng mát quanh nhà. Rất ít nhà chịu trồng cây ăn quả vì dân xứ nầy thích ăn cây quả bán ở tiệm, an toàn về mặt vệ sinh hơn là ra vườn hái trái. Nhà nào trồng cây quả, thường để chín rụng đầy vườn, lâu ngày thành rác bẩn.
Cuối mùa Xuân, chim chóc bốn phương từ đâu tụ về. Mới 3 giờ sáng, chim đã bắt đầu ríu rít gọi đàn. Cây mận đào nhà tôi, nhánh nào cũng đầy trái, bỗng trở thành kho lương thực tươi mát cho bầy chim. Mỗi sáng sớm, ra nhìn hột và quả mận đào chim ăn rụng tả tơi trên thảm cỏ, lúc đầu tôi cảm thấy tiêng tiếc nhưng bóng dáng đủ màu và tiếng hót hồn nhiên của bầy chim mang niềm vui bù lại.
Gần Rằm Tháng Tư, trái mận đào chín mọng, chim càng rủ nhau lựa quả ngon, mổ rụng vung vãi càng nhiều. Tình yêu thiên nhiên, chim muông có cánh cửa giới hạn của lòng sở hữu. Ngắt một nhánh hoa vườn người hay đuổi bầy chim ăn quả vườn nhà là mình đang khép lại cuộc ngao du về khóa ngõ nhà mình. Tôi đi tìm con cú; một con cú lộng giả thành chân làm bù nhìn đuổi bầy chim lạm dụng quyền… làm chim không giới hạn. Phải cần một sự dữ dằn, xấu xí hình tướng để xua đuổi hình ảnh hoa bướm của lòng tham.
Suốt mấy ngày anh chủ nhà trong tôi cứ đi tìm hình giả một con cú mèo trông càng dữ dằn, gớm ghiếc hơn cả cú thật càng tốt. Cái nhìn dư ảnh trong tâm và ý nghĩ của tôi chuyển dần từ bầy chim líu lo buổi sớm sang con cú vọ, từ khi tôi đi tìm cú đuổi chim. Vào những hàng bán đồ chơi chim chóc, mắt tôi nhìn vào hình chim muông đủ màu, đủ loại mà chẳng thấy con nào vì chỉ đi tìm con cú. Bắt gặp một dáng vẻ sinh vật dữ dằn nào tôi đều chăm chú nhìn ngắm, nhưng hầu hết chưa đủ “dễ sợ” làm bầy chim sợ hãi. Cả mấy ngày, nhìn đâu tôi cũng mường tượng về con cú lý tưởng của mình. Đó là con cú sẽ làm bầy chim kia kinh hồn bạt vía. Con cú như bến đậu của dòng suy tưởng xua đuổi trong tôi vào lúc này.
Đã đi tìm thì sớm muộn gì cũng sẽ gặp. Theo lời mách miệng của một anh Mỹ đen gặp tình cờ ở Country Mall, tôi vào chợ Ross, tới khu bán hàng trang hoàng ảnh tượng. Những tượng Phật, Chúa, Thánh, Thần, thiên tài, nghệ sĩ… xếp hàng trên giá mờ nhạt. Những muôn thú cây cảnh có như không. Mắt tôi sáng lên với một hình giả con cú làm bằng chất nhựa dẻo được sơn phết nhiều màu nhưng hai màu đen trắng đối chọi níu chặt cái nhìn của tôi vào nó. Tâm tôi đang trên cuộc hành trình tìm cú; ý tôi đang trôi trong dòng tới cú. Nên gặp được thân cú dữ dằn thật là một hạnh phúc. Tôi phấn chấn mua về treo cao chót vót trên cây mận đào. Bên cạnh còn treo thêm một dãy dĩa CD lóng lánh hai mặt cũng theo lời khuyên của người mách nước.
Sáng đầu tiên vừa mới thức dậy là tôi mở cửa chạy ngay ra vườn sau nhìn con cú treo trên cây mận đào. Con cú phản ánh mặt trời. Dĩa CD bắt nắng loang loáng. Một cuộc phản công hùng tráng vô cùng. Không có bóng một con chim nào liều lĩnh lại gần. Tiếng chim râm ran chỉ còn nghe vọng lại từ phía vườn nhà ai. Mắt cười nhìn con cú đồng minh vểnh cái mỏ quặm nhọn hoắt trên cây nhìn xuống, tôi xoa tay hoan hỷ. Cảm nhận đồng hành. Vừa đúng dịp lễ Phật Đản, tôi hái những trái mận đào to nhất còn sót lại sau cuộc xâm lăng của bầy chim và đơm lên bàn thờ cúng Phật. Khói nhang bay thanh thoát sao tôi cứ mường tượng như dáng hình con cú. Giữa cuộc binh đao, lòng người chiến sĩ nào mà không vương mang mùi thuốc súng!
Chim Ka Lăng Tần Già |
Những ngày tiếp theo, mỗi sáng tôi đều có dĩa mận đào tươi cúng Phật. Con cú và tôi vẫn gần gũi nhìn nhau mỗi ngày. Tiếng chim xa lắc. Vài con chim sà cánh đậu trên cây; nhớn nhác rồi bay đi. Tôi đã lấy lại được cây cherry. Trái bây giờ chín tới. Sau trận mưa giông, trái rụng, gió lớn thổi bay tứ tán đầy sân. Vắng tiếng chim buổi sớm, buổi chiều làm tôi nhớ. Nỗi nhớ mơ hồ như vọng ra từ góc khuất của lòng mình. Vắng những cánh chim. Cũng đàn chim ấy, nhưng trước đây có vẻ như ranh mãnh, bon chen; sao bây giờ tôi thấy chúng hồn nhiên và thơ dại như bầy oanh vũ ngày xưa. Trên cây mận đào đong đưa với gió chỉ còn con cú. Gió lên, trái rụng. Trên xác lá và trái chín vỡ tan, sáng nay tôi tìm thấy hai tổ chim con rơi xuống. Những con chim non đã chết queo trong tổ. Có lẽ vì mấy ngày qua chim mẹ sợ không dám tới, bỏ đói đàn con.
Con cú, dẫu chỉ là cái mã vô hồn nhưng sao nó vẫn lay động được cảm tính, tâm thức của sự sống. Đàn chim sợ nó như một phản ứng bản năng. Tôi gần với nó vì nó giúp tôi loại trừ được bầy chim mà tôi coi như một đối tượng xâm phạm quyền sở hữu của mình. Chỉ có một điều tôi quên mất. Đó là quyền sở hữu những gì mà tôi trân quý, nhưng có thể chẳng có giá trị gì với người ngoài và cũng chẳng giúp được gì cho ai: Cây cherry, cây mận đào ở Mỹ nhiều lắm; nhưng chẳng ai biết hay quan tâm là cái mô tê gì ở Việt Nam và nhiều xứ khác. Với tôi, cây mận đào làm hoa trái cúng Phật trong mùa Phật Đản là một duyên lành ở xứ người. Tôi thường loay hoay tìm Phật tận đâu đâu ở khu vườn Lâm Tỳ Ni, ở cung trời Đâu Suất nhưng lại quên “ông Phật” trong tôi mà chính đức Phật từ hơn 2500 trước đã thọ ký cho mỗi chúng sinh về sau. Con cú cứ ám ảnh cái nhìn, cái nghĩ của tôi như một ý nghiệp mây mù thiếu mầm độ lượng. Tôi phải từ bỏ nó để trở lại với chính mình.
Rũ sạch định kiến và sự ám ảnh thật không đơn giản. Mấy chú chim con chết trong tổ ám ánh tôi không dứt. Phù du và bé bỏng thế thôi, nhưng mỗi hạt cát đều có quyền sống riêng của nó. Nói chi tới lòng Từ Bi cho to tát. Chỉ nói tới tình thương nhỏ bé đối với bầy chim cũng đã cần tới cái tâm không khóa, không gài. Tôi lặng lẽ bẻ khóa như một lời cầu nguyện. Rồi tôi trả lại con cú cho nhà hàng Ross – một con cú giả mặt mày còn nguyên vẹn – lấy lại chút tiền còm giúp quỹ trẻ mồ côi. Đàn chim lại trở về. Tiếng hót đánh thức tôi ngồi uống trà để viết những dòng nầy khi trời chưa sáng.
***
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa – một vị Phật tương lai – ra đời.
Hoa Mạn Đà La |
Từ ấy, hoa Mạn Đà La thành biểu tượng của Hoa đạo. Nghìn năm sau, hoa Mạn Đà La là loài hoa “hình vô hình hình, tướng vô tướng tướng” của tâm tưởng khi hướng về đức Phật. Bao tấm lòng thực tế tìm hoa. Bao tâm hồn mơ mộng nghĩ về hoa.
Trong kinh Phật thường thấy xuất hiện nhiều loài hoa trong thời thuyết pháp của Phật như: Mưa hoa Mạn Đà La (Mandàrapushpa), Mạn Châu Sa, Mạn Thù Sa, Ma ha Mạn Đà La, Ma ha Mạn Thù Sa. Người ta cho đó là những loại Hoa Trà (Camelia); mà sinh tộc hoa trà thì có hàng trăm loại. Và cũng từ ấy, những tâm hồn mang khuynh hướng tiếp cận với sự huyền nhiệm của tâm linh đất trời không ngớt rải hoa và quét hoa xung quanh những tượng đài Phật giáo.
Trong bao nhiêu lần lễ hội Phật giáo, nhất là những lần lễ hội quanh tôn tượng đức Quán Thế Âm, người ta không ngớt cãi nhau về mây ngũ sắc, về hoa Mạn Đà La rãi xuống trần gian từ giữa khung trời phiêu linh vô tướng. Kẻ “thấy” thì cho đó là phép mầu huyền nhiệm. Người “không” thì cho đó là một ám ảnh mang tính chất mê tín dị đoan. Bậc “vô tướng vô tâm” thì mỉm cười thinh lặng. Người đời sống chết với tình yêu nhưng chẳng ai vẽ được chân dung một Tình Yêu có thật.
Và nữa, hoa nở chim kêu. Những loài chim ẩn hiện trong kinh Phật như Oanh Vũ, Anh Lạc, Cộng Mạng, Ka Lăng Tần Già vẫn thường xuyên xuất hiện. Bóng dáng cùng tiếng chim Ka Lăng Tần Già giúp nở những mầm hoa hạnh phúc. Nhiều người đã cất công lặn lội qua Ấn Độ, vượt sông Hằng tìm về đất Phật. Dấu tích ngày xưa đã thành hoang phế. Còn chăng những phế tích được tôn tạo lại như những biểu tượng. Người tìm về đất Phật chỉ còn được kể lại rằng, Ka Lăng Tần Già là một loài chim thuộc giống chim sẻ Ấn Độ. Loài chim ấy ẩn cư trong suốt mùa Hè nóng như thiêu đốt của xứ Ấn và khi chim cất tiếng kêu là mở đầu cho Gió Mùa sắp tới từ tháng Tư đến tháng Mười. Tiếng chim như là biểu tượng âm thanh vui sống vỡ bờ làm vạn vật hồi sinh. Lời của Phật cũng như tiếng chim Ka Lăng Tần Già giúp con người hồi sinh và hạnh phúc từ sự ẩn nhẫn cam chịu khổ đau của dòng sống tạm bợ mà phải cột trói trong vòng duyên nghiệp trùng trùng. Dr. Satesh Pande, nhà sinh vật học chuyên khảo về những loài chim đã sưu tầm và mô tả hình ảnh cùng tiếng hót thanh thoát của loài chim Ka Lăng Tần Già (Kalavinka Sparrow). Nhưng loài hoa Hoa đạo và Chim Đạo chỉ nở được và hót được khi trái tim là cánh cửa không cài, mở rộng đón một bầu trời xanh.
Ít nhất đã có một lần trong đời, tôi đi tìm chim cú mới cảm nhận được tâm hồn mình nhuộm cú khi mãi miết đi tìm bóng cú giữa thiên nhiên bao la nhưng không có chỗ an trú cho mình vì chén trà “đương niệm hiện tiền” đã đầy ắp. Muốn rót thêm một giọt mới pha, cũng phải cần đổ lớp cũ ra thôi!
Mùa Phật Đản, mong hoa Mạn Đà La nở khắp lòng người và tiếng chim Ka Lăng Tần Già làm đượm tình người. Hoa phi hoa, điểu phi điểu… Chẳng phải là hoa, chẳng phải là chim mà chỉ có tiếng vọng trong ta mang suối nguồn hạnh phúc cho mình.
North Highlands, mùa Phật Đản 2554 – 2010
Trần Kiêm Đoàn
TỪ NGÕ HUẾ XƯA
Trần Kiêm Đoàn, MSW., Ph.D
Không ngờ rồi sẽ có ngày một chú bé quê lại được vào trường Quốc Tử Giám.
Tôi được vào học lớp đệ thất trường Hàm Nghi Huế năm 1958. Thỉnh thoảng vào những buổi sáng sắp hàng chào cờ thầy hiệu trưởng Hồ Văn Lê và thầy tổng giám thị Lê Hiếu Kính vẫn nhắc nhở rằng, nơi chúng tôi đang đứng là trường Quốc Tử Giám ngày xưa. Quốc Tử Giám là trường Đại học Quốc gia đầu tiên xây dựng ở thành Thăng Long Hà Nội vào năm 1076 và trường “Đại học Quốc gia” này được xây dựng ở Huế vào năm 1821 dưới triều vua Minh Mạng. Quốc Tử Giám là trường dành riêng cho con vua cháu chúa đến học. Gần một thế kỷ rưỡi sau, khi con cháu của hàng dân dã như chúng tôi bước đến vùng đất một thuở Hoàng triều nầy, thì Quốc Tử Giám uy nghiêm ngày xưa chỉ còn là tên gọi.
Di Luân Đường, tên ngôi nhà lớn ở giữa làm đại giảng đường thời cổ, nay trở thành nơi thờ phụng đức Khổng Tử và viện nghiên cứu Hán Học. Ba dãy nhà làm cư xá cho các hoàng thân, cậu ấm xưa kia, nay được dùng làm phòng học của chúng tôi và văn phòng của nhà trường. Rồi bốn năm Quốc Tử Giám êm đềm đi qua. Những cậu bé quê cũng học được chút ít văn minh thành phố. Ít ra thì đầu óc chân tay cũng nhạt bớt chất phèn của “quê hương em nước mặn đồng chua”, lên được hàng “trình độ văn hóa đít lôm” đủ làm kẻ sĩ miệt đồng.
Sau Hàm Nghi là Quốc Học. Trường Quốc Học Huế cũng mang trên mình một lịch sử le lói không thua gì Quốc Tử Giám. Quốc Học vừa “oai” vì có cái tên rất sang; lại vừa có một lịch sử vang bóng như những dấu ấn chói mầu son của chốn Hoàng triều cương thổ. Được xây dựng từ năm 1896 dưới triều vua Thành Thái với cái tên Pháp Việt đề huề là Lycée Khải Định. Lần đầu tiên, nơi chốn đế đô thâm nghiêm, truyền thống “kỵ húy” khắt khe đến mức tên thê thiếp của nhà vua cũng không dám gọi thẳng, thế mà lại lấy tên một ông vua ra đặt tên trường không khác gì ở Paris. Đây là nơi dành riêng cho con cái của các hoàng thân, quốc thích và quan lại đến học. Trường Quốc Học đã là lò đào tạo nhân tài của hai thế hệ Tiền chiến và thế hệ Chiến tranh Việt Nam trong cả nước.
Tôi học lớp đệ tam, được đeo “một quèo” ở biển tên màu xanh may trên ngực áo sơ mi trắng. Học trò đệ tam Quốc Học là hàng lính mới tò te, nên phải biết e dè và khiêm tốn đi về ngày hai buổi trên con đường trái tim chất ngất ân tình nhất của Huế. Đó là con đường Lê Lợi dọc sông Hương, từ Đập Đá lên ga Huế. Nhưng khi đến trường Đồng Khánh và Quốc Học con đường bỗng mất tên, biến dạng, quên cả tuổi đời, đổi áo nhân gian để trôi vào ảo ảnh. Đường sẽ mang tên: Con đường áo trắng, đường phượng bay, đường mang tên em, đường áo tím, đường tình sử, đường tôn nữ… Tên mỗi con đường mang ý nghĩa riêng đối với một người, một thuở, nhưng cái chung của nó vẫn là nét đẹp không tàn phai.
Cái tự nhiên, xuềnh xoàng từ trong bản chất của gã học trò miệt đồng như tôi thường xuyên bị đánh thức. Cứ mỗi sáng thức dậy, chuẩn bị sách vở đến trường, nghĩ đến khi đạp xe qua cầu Trường Tiền, quẹo phải, ngang qua trường Đồng Khánh phải xông pha phơi mình giữa một rừng áo trắng, tóc thề, và những đôi mắt hải đăng ẩn mình sau nón lá là tôi phải “dọn mình” cho gọn gàng tươm tất. Quệt thêm một chút nước lạnh chải đầu cho gọn. Lấy bộ áo quần xếp nếp thẳng tưng dằn dưới phản ngủ suốt đêm ra mặc. Nếu không đi học trên đường phượng bay, ngang qua trường Đồng Khánh có lẽ đời tôi sẽ đơn giản hơn. Rồi đến những mùa thi, tương lai xa vời vợi, tôi ít nghĩ tới hơn là siêng năng hé cửa nhìn trộm cô bé Đồng Khánh học cùng cấp lớp bên cạnh nhà. Tôi dại dột không dám thổi đèn ngủ sớm hơn, nếu ánh đèn nhà bên chưa tắt, mặc dù tôi đã ngáp dài, ngáp ngắn, cố vật lộn với cơn buồn ngủ cứ níu tôi về với thực tại. Tôi tưởng tượng quả đất sẽ quay ngược chiều nếu ngày treo bảng tú tài mà cô bé đậu còn tôi rớt. Thế mà năm sau cô bé đậu còn tôi rớt kỳ đầu thiệt tình. Tôi chẳng dám nhìn ai và dĩ nhiên là không dám nhìn cô bé đã lên “bà tú”, rồi lặng lẽ cuốn gói rời nhà trọ về làng bế môn gạo bài thi kỳ 2.
Hỏng thi là một biến cố của đời học trò bất kỳ ở đâu. Nhưng đối với học trò Quốc Học chúng tôi thì hỏng thi tú tài là “đệ nhất buồn” vì có ngôi trường Đồng Khánh bên cạnh. Cái nhìn ghẻ lạnh hay thương hại của người đẹp đối với người thua cuộc sẽ nhức buốt như một bản án tuyệt tình không công bố đối với kẻ sa cơ.
Trường Đồng Khánh ảnh hưởng lên con dân Quốc Học như thế nào thì quả là khó mà lường được. Nhưng tôi đã nghe một thằng bạn thuộc loại đẹp trai, con nhà giàu, học… lếu long trọng phát biểu về nữ sinh trường Đồng Khánh như sau:
- Dân Đồng Khánh dễ sợ chi lạ, nói không “ngạ”!
Cách diễn tả thuần Huế như vậy là một lọai “công án” Huế; một sự đem nghìn trùng về giữa hư không. “Dễ sợ” là một khái niệm cực tả mà mọi quy ước của ngôn ngữ đều bất chấp hình tướng, không bị giới hạn bởi kích thước của sự ví von, cân đo đong đếm. Đó là một cảm nhận gần với tuyệt đối, mạnh hơn cả một chùm tiếng “rất”. Rất, rất, rất… đẹp sẽ không đẹp bằng “đẹp dễ sợ!”. “Ngạ” cũng là khái niệm của vô biên. Nói không ngạ là không thể nào nói hết ra bằng lời. Cách nói Huế là cách nói bằng cảm nhận. Nói hơi, nói bóng, nói một vầng mây bay qua thay cho lời trần tình về mơ ước tình yêu chan chứa cả bầu trời xanh; nói “sợ mạ la” thay cho một sự gật đầu hò hẹn. Ngôn ngữ giàu cảm xúc nhất của Huế là nói mà không cần hiểu hay hiểu cách nào cũng được. Chỉ cần cảm nhận “như rứa” và thấy hay. Cái hay không qua ngõ ngách của phân tích và lý luận mà đi thẳng vào cảm quan người nhận như lời nhạc mang chất thơ dễ cảm nhưng khó hiểu của Trịnh Công Sơn. Dễ cảm mà khó nhận như một lần qua bến đò Thừa Phủ chiều mưa, vắng vẻ và cảm thấy buồn. Nỗi buồn vô lý, vô duyên và vô cớ cứ lất phất bay từ đầu sông tới cuối bến. Qua đò, không cần biết có ai chờ ai, ai nhớ ai, ai con nhà ai và ai đã vắng, nhưng vẫn có nổi cảm xúc mênh mang chực chờ đâu đó. Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai!
Riêng tôi, suốt ba năm học Quốc Học, ngày lại ngày đạp xe đi học qua trường Đồng Khánh, nhưng chưa bao giờ có dịp dừng lại trước cổng trường vôi hồng pha sắc tím đó. Lý do tôi không dám lân la bén mảng đến trường Đồng Khánh vì thuở học trò, tôi cảm thấy Đồng Khánh cả người lẫn ngựa đều mang một vẻ gì vừa sang, vừa đẹp, không hợp với bản chất nông dân chất phác của mình.
Dân Đồng Khánh đẹp nhất là dáng vẻ bên ngoài. Mặt mũi nội dung ra sao chưa biết, nhưng với cái vóc dáng thanh thanh, khoác lên chiếc áo dài tha thướt, quần dài trắng tinh tươm, thanh khiết, nuột nà; với dãi tóc mây đen tuyền, mọc ra từ chiếc nón lá trắng ngà, óng mượt phủ lên lưng, chảy xuống bờ vai và uốn lượn với gió đã tạo nên những huyền thoại về “cô gái sông Hương”.
Hình như những dáng vẻ thanh nhã như vậy thường hứa hẹn một khuôn mặt không diễm kiều thì cũng rất thơ, e ấp núp dưới pháo đài là cái bóng vạn lý của chiếc nón lá và dãi quai nón có hình dáng và mầu sắc nói nhiều hơn cả vài trang tiểu sử. “Người lịch sự không ngoái cổ nhìn lui”, tôi biết vậy nên họa hoằn lắm mới dám liều lĩnh quay nhìn lui một khuôn mặt tưởng đâu đã yên thân sau vành nón. Đi xe đạp nhìn lui một nàng tuyết trắng Đồng Khánh, tôi thường ít sợ bị mắng “ba nhe” hơn là cảm giác vỡ mộng nếu lỡ bắt gặp một khuôn mặt được dựng lên trong phút đãng trí của “bà Mụ bắt lầm”!
Dân Đồng Khánh thường làm cho dân Quốc Học chúng tôi không ít chàng bỗng thành nghệ sĩ, thi nhân, lãng tử và đôi khi cũng thành anh hùng thật bụng và anh hùng... vớ vẩn, chỉ vì từ buổi có em. Người Đồng Khánh còn có khúc “mê hồn ca” vì giọng nói, tự nhiên cũng nhiều mà làm điệu cũng không phải là ít. Âm vang tuổi thanh xuân tròn và ngọt lịm của giọng nữ có sức lay động đã dành, nhưng cách dùng từ nhẹ nhàng, chọn lọc và quý phái của giới nữ sinh thành phố Huế cộng với nghệ thuật diễn cảm gợi hồn như thì thầm, cắn môi, nheo mắt, bỏ lửng, đam mê, đăm chiêu, hờn dỗi, lạnh lùng... còn làm cho dân Huế ngoại vi thành phố như tôi đủ ngẩn ngơ bạt vía; nói chi đến những chàng trai xứ Quảng mướt mồ hôi trèo đèo, lặn lội… ra thi!
Ai đã chọn ngôi nhà sát nách trường Quốc Học để dựng lên trường Đồng Khánh quả là một thiên tài đầy lãng mạn về khoa phong thủy và nghệ thuật.
Nếu đứng quay lưng về phía núi Ngự Bình, nhìn ra sông Hương trước mặt, sẽ có “Nam tả” là trường Quốc Học và “Nữ hữu” là trường Đồng Khánh. Hai ngôi trường mang thế cực dương và cực âm tạo thành một cặp đôi “âm dương bình hành” qua gần cả một thế kỷ lịch sử học trò. Chắc chắn là hình ảnh cô nữ sinh Đồng Khánh sẽ không nên thơ đến mức huyền thọai như thế nếu trên đường Lê Lợi bên bờ sông Hương không có bóng dáng của những chàng trai Quốc Học: Vắng chàng, vàng rơi nỏ tiếc!
Ngày kỷ niệm Quốc Học 100 tuổi và Đồng Khánh 79 tuổi, tôi có cảm tưởng như đây là ngày tình sử “Bách niên giai lão” của hai ngôi trường “cặp đôi” – Vẫn mãi mãi là cố nhân – dẫu cho “Cây đa bến cũ con đò khác đưa”!
Xa quê hương, cũng có nghĩa là xa Huế, xa Quốc Học Đồng Khánh, xa những mảnh đời ngọt ngào và cay đắng… mà tất cả đã thành kỷ niệm nằm sâu trong những ngăn ký ức. Có những lúc thật bất chợt, ngăn ký ức bật nắp và cơn lũ của hoài niệm cuồn cuộn cuốn phăng những dòng suy tưởng cho suối nguồn tình cảm kéo những nỗi buồn vui đi về đâu xa tắp. Như sau cơn lụt có những bờ đất trầm lỡ, dăm mảnh đất mang một hình hài mới nhưng đây đó vẫn còn lại dấu vết của ngày xưa. Nơi đây, quê người, nếu giờ nầy là 5 giờ chiều ngày thứ năm sắp tan sở ở Cali thì bên tê, Quốc Học Đồng Khánh là 7 giờ sáng ngày thứ sáu. Có tiếng trống báo giờ vào lớp. Tôi nghe, từ một nỗi nhớ rất sâu, nhưng không rộn ràng vì dư âm đã tan vào đất, lắng vào lòng, hốt mê hốt giác hơn 40 năm…
Đêm Hồ Trường Quốc Học
Trong lịch sử 100 năm của trường Quốc Học, không biết có thời kỳ nào mà bảng kết quả kỳ thi tú tài 2 lại có một tác dụng mang tính quyết định cho số phận con người mạnh mẽ đến như thế. Mảnh bằng không chỉ là dấu hiệu của học vấn mà còn là một quyết định gần như tối hậu cho một thanh niên tuổi mười tám, đôi mươi, được tạm yên thân hay phải bị nhổ bật cả gốc rể như thời kỳ của tôi vào những năm giữa thập niên 1960. Khi tấm bảng niêm yết danh sách thi Tú Tài vừa treo lên, cũng là lúc chúng tôi chuẩn bị đổi đời: Vào đại học chuyên nghiệp, đại học tự do; vào quân truờng rồi ra chiến trường hay chẳng vào đâu cả… đều có nghĩa là bước vào một cuộc đời, một cách sống hoàn toàn mới mẻ.
Tôi tình cờ được dự buổi họp mặt học sinh Quốc Học mùa Hè tại nhà Nguyễn Thành Nhân gần sân vân động Tự Do. Thật ra, đây là một cuộc họp mặt của một nhóm thân hữu học sinh lớp 12 Quốc Học với sự tiếp tay của những người đẹp Đồng Khánh, Kiểu Mẫu, Bán Công, Mai Khôi… Chủ lực là các gã tú đậu thết đãi an ủi mấy chàng tú hỏng.
Đây là cuộc họp mặt học trò làm tôi nhớ đời vì không ngờ sau đêm chia tay ấy, có đứa đi lính bên nầy, đứa trốn vào bưng biền đi bộ đội bên kia. Nhiều đứa trong “Đêm Hồ Trường” hôm đó, ngất ngưởng men rượu Thiên Tường, rượu Làng Chuồn nằm gác chân lên nhau mà ngủ, sớm mai chia tay đầy lưu luyến. Nhưng rồi qua nhiều biến cố dồn dập trên quê hương, có những đứa bạn gần gũi cùng ngồi chung bàn, chung lớp ở Quốc Học nhưng lại không chung hoàn cảnh và chí hướng Chiến tranh bão liệt lan ra khắp nơi, chỉ còn chừa lại cái lõi thành phố. Thơ xanh êm ả pha mùi lãng mạn sướt mướt thời tiền chiến, cũng như thơ lữa của Quang Dũng hừng hực khí thế kháng chiến chống xâm lăng… đã trở thành quá khứ. Vẻ mệt mỏi, trăn trở, than van pha mùi triết lý về quê hương đau khổ và thân phận làm người như Jaspers, Sartre, Remarque, Trịnh Công Sơn, Phạm Duy… trở thành khuynh hướng thời thượng. Bài thơ được ưa chuộng nhất trong các tiệc rượu thời nầy là bài Hồ Trường của Nguyễn Bá Trạc có lẽ vì bên cạnh hơi hướm lãng tử và trăn trở, Hồ Trường còn có thêm niềm bi phẫn của kẻ sĩ sinh chẳng gặp thời.
Gã nghệ nhân được ưa chuộng và nhớ đời trong đêm họp mặt hôm đó là Lê Văn Thôi, người vừa diễn, vừa ngâm bài Hồ trường sống thực và sống động đến nỗi 40 năm sau còn có người nhắc lại “Đêm Hồ Trường”.
Thôi là con nhà Huế toàn ròn nên mới có tiếng ngâm thơ Bình Trị Thiên mềm và ướt vì có tẩm sương núi, ướp gió Lào như mây trên núi Bạch Mã, nhưng cũng buồn xé ruột như điệu ca Hời Nam Ai.
Một buổi tiệc học trò mang tiếng là họp mặt nhưng thực sự là để chuẩn bị chia tay. Mỗi cuộc chia tay trên xứ Huế thường mang một vẻ gì u ẩn nao lòng vì tâm Huế bao la nhưng tay Huế nhỏ quá, không đủ bao bọc cho bầy con tứ xứ trở về. Đã ra khỏi Huế thì đừng mong ngày về mà hãy chuẩn bị tâm trạng nhớ Huế, trông vời quê mẹ. Những người trẻ có mặt trong đêm Hồ trường bịn rịn tìm nhau vì cảm nhận được điều đó.
Đêm xuống đã sâu, nhưng không ai muốn chia tay. Sợ chia tay không có ngày gặp lại. Bởi vậy tiếng ngâm thơ của Thôi trở thành chất keo gắn những nỗi bâng khuâng dính chùm trong cảm xúc.
Sau lời giới thiệu của Nhân, trong sự im lặng chờ đợi, tiếng cười vỡ vụn của Thôi bỗng vang lên. Nửa như đau xót, nửa như hào hùng trêu chọc. Con nhà hội họa hóa trang thật tài tình. Khuôn mặt thư sinh của Thôi, thêm mấy chòm râu, điểm những nét nhăn hằn lên trên trán, với cái khăn mỏ quạ và chiếc áo dài đen bạc màu mượn của bác cai trường đã biến Thôi thành hình ảnh một kẻ sĩ thời xa xưa sinh chẳng gặp thời. Một tay ôm bầu rượu, tay kia đặt trên đốc kiếm. “Hồ rượu” và “bảo kiếm” đều là các dụng cụ hóa trang vở kịch Tiếng Gọi Lam Sơn của Trần Quang Long diễn trong trại Hè học sinh Quốc Học còn sót lại. Sau tràng cười kinh động là tiếng kiếm rút ra khỏi vỏ “rít” lên qua cửa miệng của Thôi. Đường kiếm múa lấp loáng mê cuồng như đang nhịp theo một bản cuồng ca. Những bè bạn thân quen không ai ngạc nhiên với đường kiếm bay bướm của Thôi vì biết gã là một sư huynh của phái Nga Mi Bãi Dâu; nhưng đối với khách lạ thì căng mắt ngồi nhìn một cách khoái chí.
Bỗng tráng sĩ nhà họ Lê im bặt, tra kiếm vào vỏ, rồi cúi gầm nhìn đăm đăm vào hồ rượu. Tiếng ngâm như từ vực sâu cuồng nộ, khí khái cất lên:
Trượng phu sao không xé gan bẻ cật,
Phù cương thường hà tất tiêu dao!
Tiếng ngâm thơ Bình Trị Thiên đanh như vết chém. Những âm sắc vút lên cao nhọn hoắc, rơi dần lảo đảo với một chút ỡm ờ và giọt xuống:
Bốn bể lưu lạc tha hương,
Trời Nam nghìn dặm thẳm,
Non nước một màu sương.
Kẻ sĩ lại ngước lên nhìn trời như đang cầu xin một ân điển, nhưng rồi hai tay buông xuống, vuốt nhẹ mái tóc đã bạc màu. Trời thì quá xa mà kẻ sĩ đã về chiều nên cũng đành đành thú nhận:
Chí chưa thành,
Danh chưa đạt,
Trai trẻ bao lăm mà đầu đã bạc,
Trăm năm thân thế bóng tà dương!
Im lặng!... Một thoáng yên ắng lắng sâu trong ánh đèn dầu lay lắt. Tráng sĩ trỗi dậy, gươm tuốt trần, rượu đầy hồ, tiếng ngâm ngân lên rộn ràng, xôn xao giữa tâm hồn bão nổi:
Vỗ gươm mà hát,
Nghiêng bầu mà hỏị
Thiên địa man man,
Ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường!
Không rõ Thôi đang diễn tuồng hay đang ngất ngưởng trong những khoảnh khắc phù du mượn tạm một vai trò để sống. Nhưng lạ lùng là đôi mắt đam mê đầy hào khí của Thôi lấp lánh tình bầu bạn, chiếu thẳng tới nhãn quan từng người có mặt. Tiếng ngâm thơ dạt dào và hưng phấn, nhưng cũng dằng dặc nỗi buồn của kẻ đi đường xa chưa gặp bạn đồng hành:
Hồ trường!
Hồ trường ta biết rót về đâu?
Vẫn im lặng. Thôi giương cao bầu rượu và nối đuôi theo tiếng ngâm thơ mời gọi:
...rót về đâu? Ta biết rót về đâu?
Có tiếng đáp thật bất ngờ:
- Rót về đây đi tráng sĩ ơi!
Đó là tiếng của Chiêu Hà “Vélo Solex”, cô bé Đồng Khánh “mode” nhất ở đường Phan Bội Châu, nổi tiếng như cồn vì mái tóc ngắn “đờ mi gạc xông” rất có duyên với dáng Tây Phương, học võ Karate với giáo sư Ngô Đồng và cỡi xe Vélo chạy phon phon trên đường phố Huế.
Mọi người quay lại vừa khi Thôi nghiêng hồ rượu rót vào ly nước chanh đã cạn của Chiêu Hà. Rồi Thôi nghiêng hồ rượu và khoát tay mời anh em cùng uống. Người đẹp Đồng Khánh đã đưa ly lên môi, thì những người hùng Quốc Học không còn lý do e dè hay từ chối. Tất cả cùng uống. Tiếng ngâm thơ lại nổi lên nửa như thách đố, nửa như mời gọi trong nỗi trần tình đầy cảm khái:
Rót về Đông Phương, (ư) ?
Nước bể Đông chảy xiết sinh cuồng lãng!
Thôi lại đưa cao hồ rượu quá đầu, hỏi tiếp:
- Hồ trường... Hồ trường ta biết rót về đâu… Rót về đâu?
Có nhiều tiếng đáp một lần, cả tiếng trong veo của người đẹp đâu đó đầy phấn chấn:
- Rót về đây!
Thôi lắc đầu theo tiếng thơ chảy xiết:
- Rót về Tây phương, (ư)?
Mưa Tây sơn từng trận chứa chan!
Và tiếp:
-...biết rót về đâu?
Lại thêm năm ba cái ly đưa lên. Thôi rót đầy rượu cho từng người rồi chỉ tay về Bắc:
- Rót về Bắc phương, (ư)?
Ngọn Bắc phong vi vút cát chạy, đá giương!
Âm hưởng giọng ngâm thơ của Thôi rung cảm tới mức mọi người đều đứng dậy, nâng ly uống cạn trong tiếng thơ hướng về Nam:
- Rót về Nam phương, (ư)?
Trời Nam mù mịt!
Hồ rượu trong tay Thôi lại được châm đầy và rót cạn tới bao nhiêu lần nhưng niềm vui pha men đắng của sự sum họp tạm bợ trong cuộc chiến vẫn tràn trề, mỗi lúc một cuồn cuộn dâng lên trong cơn mê hồ trường. Dáng đi của tráng sĩ Thôi đã ra chiều chếch choáng. Thôi lấy hết tuyệt kỹ đểâ ngâm tràn những giọt thơ còn lại:
Có người quá chén như điên như cuồng!
Nào ai tỉnh, nào ai say,
Chí ta ta biết, lòng ta ta haỵ
Nam nhi sự nghiệp ư hồ thủy,
Hà tất cùng sầu đối cỏ câỵ
Tiếng ngâm thơ đã dứt một thoáng qua rồi mà không khí vẫn lặng im ngây ngây. Không hiểâu thơ đang say lòng người hay người đang say men rượu bốc thành thợ. Cho đến khi hồ rượu cạn tuột khỏi tay người cuồng sĩ, rơi xuống vỡ tan mới chợt nghe tiếng vỗ tay kéo dài như luyến tiếc...
Thiên địa man man, ai người tri kỷ... nên chúng tôi không còn dịp gặp lại nhau ở quê nhà. Những thằng bạn “Hồ trường” một thuở gặp nhau ở Cali. Nguyễn Trát, Hoàng Kính, Nguyễn Lập, Phạm Tuế, những thằng bạn chân quê của tôi qua Mỹ theo diện H.O. Tôi và Mảng Bảo Thạnh chèo ghe đi chui qua biển. Đặng Văn Tuấn và Lê thị Hoa du lịch Mỹ bằng máy bay. Bạn cũ gặp lại ở quê người, điểm lại những khuôn mặt trong ngày hội ngộ Hồ Trường 40 năm trước thì hơn một nửa đã qua đời vì tử trận, chiến tranh, mất tích, bệnh tật, tai nạn bất ngờ…
Rót về đâu? Sự bâng quơ lạc lối một thời vẫn còn đó như một vấn nạn chung thân của kiếp người. Hơn một nửa bạn bè đã về đất, nhưng có mấy người biết “rót về đâu” để hồ rượu đời khỏi tràn be giọt xuống sông Hương, chảy về Nam Hải. Hình như vẫn còn một nơi an toàn nhất để rót cho đầy, uống cho cạn hết Hồ trường mà vẫn không say; hay say mà không cần uống: Đó chính là lòng mình. Có ai đã bưng hồ rượu để rót về lại lòng mình để tìm lại chính mình và kết mình làm tri kỷ. Con rồng, con phụng cao sang tận đỉnh trời, nhưng phải triều nguyệt hay tranh châu để mượn ánh sáng mặt trời, mặt trăng soi rọi cho mình. Đời sống Việt Nam chỉ có một con chịu đốt chính mình để làm ra ánh sáng. Đó là con cúi bằng rơm với thân tâm nhẹ nhàng, rỗng lặng và vô ngã.
Chút tâm sự cá hồi...Ngày về...
Đồng Khánh là ngôi trường định mệnh của tôi về cả nghề lẫn “nghiệp” dạy học vì đây là nơi đầu tiên tôi bước chân vào và cũng là nơi cuối cùng tôi bước chân ra khỏi nghề dạy học trên quê hương Việt Nam.
Nơi đầu tiên tôi bước lên bục giảng là lớp Đệ nhị C của cô Thanh Tâm với tư thế là một giáo sinh thực tập.
Để cho “ăn khách”, tôi cũng đã cẩn trọng ăn mặc theo lời khuyên của quân sư tiểu muội Đông Hải với áo sơ mi trắng, cà vạt tím Huế điểm hoa chìm, quần tây màu sậm, gót giày kê lên một chút cho có vẻ cao... thượng!
Nghe đâu học trò ban văn chương (ban C) Đồng Khánh đều là những “con yêu bánh nậm” có nội công thâm hậu và miệng không cần bôi mỡ mà ăn nói vẫn cực kỳ lưu loát trơn tru.
Buổi sáng vừa bước chân vào lớp, phái học trò đã xì xào xuất chiêu trước không cần tốn thì giờ để phân ngôi chủ khách gì cả:
- Chà, thầy ni có cặp mắt đẹp ác liệt tụi bây ơi!
Một giọng khác từ phía “hậu trường” lắc xắc phóng lên:
- Hi, hi! Cà-la-hoách tím cả chiều hoang biền biệt. Úi chao ơi! Ngoài hai mươi tuổi yêu mười bảy. Tim tím ban chiều tim tím mai! Tim tím sim rừng tim tím núi. Đời răng nhiều tím rứa anh ơi!
Tôi phải lạnh lùng làm chủ tình thế. Mặc cho yêu quái lộng hành, mình cứ mủ ni che tai. Nhắc cái thiết bảng Tôn Ngộ Không lên tai giả điếc vân du vào động yêu là chắc ăn. Đến lượt tôi “ra chiêu” gọi đám tiểu nữ bằng “các em”, xưng “tôi” thì phản ứng xì xào nghe càng dễ bị nao núng tinh thần hơn. Từ bàn thứ hai, có tiếng vọng nhỏ như tiếng thì thào:
- Em ơi nếu mộng không thành thì sao… Em, em… ôi, thiệt xưng hô chi mà nghe ngọt xớt, muốn rớt nửa trái tim luôn!
Học trò nghịch tới cỡ nào đi nữa thì vùng bảng đen và bục giảng vẫn là giang sơn bất khả xâm phạm của ông thầy. Tôi phải mở đợt phản công từ chiến tuyến của mình bằng cách dõng dạc điểm danh và kêu học trò trả bài cũ. Tôi nhắm ngay mấy tiểu nữ có tên gọi rất yêu kiều nhưng mang cột điểm toàn “bị gậy” (zero và một) lên trước để trấn áp đối phương và vãn hồi an ninh trật tự.
Nữ sĩ đầu tiên lên trả bài, có tên gọi đẹp như giòng sông, không thuộc bài. Cô bé lúng túng đứng sát góc bàn thầy giáo, mắt chớp chớp nhìn lên như muốn kéo cái trần nhà xuống che mặt, rồi nhìn xuống, trán lấm tấm mồ hôi làm cho những sợi tóc mai dán lên má hồng chín ửng, tay vân vê chéo áo dài trắng thêu hoa tím. Cô bé nhìn quanh vối đôi mắt mọng nước như sắp khóc. Thì ra nội lực của các cô nương Đồng Khánh có tiếng mà không có miếng. Yêu Bánh Nậm khi lâm trận cũng mềm nhũn như cuốn bánh ướt mà thôi. Nghĩa là các nàng chỉ dám phục kích núp sau bàn chọc thầy, chứ bị kêu lên vùng giang sơn lãnh địa của thầy cô cũng bối rối và có khi “run như run thần tử thấy long nhan” nếu học bài chưa chín.
Đến phần giảng văn, tôi dạy bài Tống Biệt của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Tôi cố chứng minh thủ pháp dụng hình đầy biểu tượng trong thơ Tản Đà đã làm nổi bật tính chất huyền ảo, vĩnh hằng, an lạc của chốn Thiên Thai. Nhưng bài bình giảng tung ra chưa hết sách vở thì đã có vài ba cánh tay giơ lên nêu thắc mắc. Tôi chỉ một học sinh có dáng thiệt thà nhất. Nữ hảo thủ nầy có giọng nói uyển chuyển, nhưng đầy tự tin và quyết đoán. Cô ta phản bác lại ý kiến của tôi khi cho rằng, thủ pháp thi ca của Tản đà trong bài Tống Biệt là quá câu nệ về từ ngữ và hình thức trau chuốt nên chưa đạt. Cô bé lý luận là tại sao tả cảnh Đào Nguyên mà vắng bóng những nàng tiên xinh như mộng, vắng điệu múa nghê thường. Từ đầu chí cuối chỉ có thấy đá mòn, rêu nhạt, nước chảy hoa trôi giống như... mùa mưa trong sở thú Sài Gòn.
Tôi đã soạn bài dạy kỹ lưỡng trong mấy tuần qua và dợt đi dợt lại nhiều lần nên thoát hiểm không mấy khó khăn trước sóng gió võ lâm giữa rừng con yêu bánh nậm Đồng Khánh.
Hết giờ, chàng giáo sinh trẻ tuổi trong tôi nghe vui vui qua lời nhắn với: “Thầy giảng nghe ‘điệu’ quá. Mai mốt trở lui dạy lớp tụi em nữa thầy hỉ?”
“Mai mốt” đó là gần mười năm sau. Tôi trở lại Đồng Khánh. Bục giảng một thời còn đó , nhưng những người “muôn năm cũ” đã biền biệt nơi mô? Đồng Khánh ngày tôi về không còn “lá đào rơi rắc chốn Thiên Thai” như thuở tôi say sưa giảng bài Tống Biệt. Cà vạt tím Huế ngày xưa chỉ còn là dư ảnh của một chặng đời quá khứ.
và Giã Từ Đồng Khánh
“ Gió sông Hồng gọi nắng sông Hương; như người thương nhắn gởi người thương... !”.
Tiếng hát của Diệu Hoàng, một nữ sinh lớp 12, vang vang và lưu lại trên từng lớp vôi hồng trường Đồng Khánh vào những ngày còn ngỡ ngàng, nhưng đằm thắm của cái “thuở ban đầu” anh em Bắc Nam mới sum họp.
Ngày đó, tôi là một thầy giáo dạy Văn còn trẻ. Lý tưởng làm đẹp cho tuổi trẻ và quê hương từng ấp ủ thoáng một chút gì hơi chao động và xôn xao khi tiếp xúc với những đồng nghiệp từ Quảng Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Nội... vào Nam làm công tác giáo dục. Cái khác giữa tôi và họ không phải là chiếc xe Honda hay chiếc xe đạp phượng hoàng Trung Quốc; cũng chẳng phải là bộ áo quần may đúng thời trang hay quần áo quốc doanh. Cái khác đầu tiên là nề nếp suy tư đã hình thành và tôi luyện trong hoàn cảnh xã hội khác nhau giữa hai miền Nam Bắc.
Sân trường Đồng Khánh những buổi sáng mùa Xuân sau 1975 vẫn có sương mù và nắng lụa êm như nhung, nhưng những chao đảo câm nín của lòng người làm tôi bao lần có cảm giác như sách vở học trò cũng vương mang một men sống lạ. Chữ nghĩa không còn nằm im lìm ép mình trong trang sách nữa mà nhảy múa như theo một nhịp sống mới. Có lẽ trong cuộc đổi đời nầy, tôi không có duyên nợ với thơ văn nên được làm trưởng ban lao động sản xuất của trường Đồng Khánh, cùng với Hồ Hữu Hạnh, giáo sư Anh Văn và Vĩnh Ba, giáo sư Toán làm phó ban. Lâu lâu có “Mệ Quế” tức là Vĩnh Quế, giáo sư Lý Hóa, tăng cường cho đủ “tứ nhân bang”.
Lao động sản xuất là một môn học mới. Một môn học mới trong một hoàn cảnh mới, lại phụ trách bởi những giáo sư mới chưa có một chút kinh nghiệm thực tế lao động là một hiện tượng hơi lạ. Tìm đủ việc hàng tuần cho mấy nghìn học sinh các lớp đâu có dễ gì hơn bàn kế hoạch vượt vượt biển Đông bằng bè chuối.
Tôi cứ theo quan niệm cổ xưa và đơn giản nhất là có cá thì có nuớc, có đất thì có cây.
Mấy tháng đầu, Đồng Khánh cũng thi đua với các trường Quốc Học, Nguyễn Huệ, Gia Hội… vác cuốc ra sân lao động sản xuất, sân trường đã trở thành thực tế chiến trường cho cả thầy trò làm lao động. Nhưng đến khi cống rãnh thoát nước cũng đã có khoai sắn mọc lên la liệt thì phải rủ nhau lên núi, xuống ngàn mà lao động. Làm sao tôi quên được cây lệ liễu trước bồn hoa văn phòng hiệu trưởng và những cây phượng vỹ ở sân trường đã mọc lên ở đó, đã chứng kiến những thế hệ học trò tiếp nối ra đi. Giữa rừng dao rựa và cuốc xẻng trùng trùng của các em học sinh giỏi môn học lao động tới mức “thà cuốc lầm hơn bỏ sót”, ban lao động chúng tôi phải bảo vệ từng gốc cây phượng vỹ như bảo vệ nét chân tâm của những tấm lòng trong sáng giữa buổi giao thời.
Cho đến khi ký hợp đồng với Lâm Trường Tiền Phong để trồng mấy chục vạn cây thông và bạch đàn trên núi Ngự Bình, tôi vẫn không hiểu vì sao bao năm qua những ngọn núi bình phong của Huế vẫn chịu cảnh “Núi Ngự không cây chim đậu đất...”. Rồi đến những ngày dài thầy trò Đồng Khánh trồng cây trên núi Ngự Bình mà dù ai có vụng nhất cũng trồng được năm mười cây trên những triền núi thấp. Núi thì xa mà gió rừng thì mạnh, tôi chỉ sợ học sinh mình bị lạc. Thầy cô chủ nhiệm dắt một lớp đi đã khó, huống chi đem cả nghìn học sinh đi lao động.
Mấy nghìn học sinh Đồng Khánh lao động trên núi Ngự Bình chưa có em nào bị lạc, nhưng toàn ban lao động Đồng Khánh một thời đã “lạc” xa mù tận bên kia trời Tây: Tôi lạc qua Cali, Hồ Hữu Hạnh lạc về Texas, Vĩnh Ba lạc tới Colorado. Trong tứ nhân bang khoai sắn một thời, chỉ có Vĩnh Quế còn ở lại, nhưng biết đâu chàng ta cũng bị lạc trong hồn Phượng Vỹ!
Xong lên núi, ban lao động lại phải xuống ngàn. Học trò Đồng Khánh, thế hệ bắc cầu của ba năm cuối trung học 1974-1977, chắc chưa ai quên chiến dịch Lao Động Phong Sơn.
Phong Sơn là vùng đất hoang tràm chổi phía Trường Sơn gần Cổâ Bi, Hiền Sĩ cách Huế khoảng 35 cây số. Nhà trường xin được chừng hai mươi mẫu để trồng sắn. Thầy trò đi lao động phải khăn gói dựng lều ở lại qua đêm. Ngày tiến công xuất phát, khí thế như xuất quân. Mấy cô học trò Đồng Khánh đi lao động trồng sắn mà giống như đi cắm trại ngoài trời. Cũng quần chẽn, áo thun, mũ lát hoa; cũng bới theo trái cốc, ô mai... thay vì cơm mo cau, gạo ruột tượng, nước chè gừng. Đến hiện trường, các cô bao khăn trên cán cuốc vì sợ lòng bong tay. Đến khi lên vồng trồng sắn, thân cây sắn giống cắt ngắn, không phân biệt nổi đầu đuôi nên gần một phần ba học sinh trồng sắn cắm ngọn xuống đất chổng gốc lên trời. Thế mà tội nghiệp, vì thương Đồng Khánh nên sắn vẫn mọc, nhưng củ lại đắng và ăn và sẽ bị say nghiêng ngửa. Hình ảnh Đồng Khánh lao động sản xuất đã được thầy Củng dạy toán, từ Hà Nội vào, nhận xét: “Trông giống như văn công ngoài biểu diễn vũ khúc ngoài trời!”
Sau ba bốn tháng “với sức người sỏi đá cũng thành cơm”, thầy trò Đồng Khánh đã thu hoạch được gần mười tấn sắn. Thành tích lao động của trường Đồng Khánh được ty Giáo dục khen ngợi nhiệt thành. Nhưng chỉ có một “sự thật phũ phàng” mà mọi người không để ý tới là giá thành sản phẩm. Mỗi cân sắn bán ra cho cán bộ công nhân viên nhà nước là 3 hào rưỡi mà phí tổn sản xuất mỗi cân do ban lao động chúng tôi tổng kết lại là khoảng 5 đồng. Cũng suýt soát hơn hai chục lần lỗ vốn. Bởi vậy, một số học trò biết chuyện thường cười khúc khích gọi đùa sắn Đồng Khánh sản xuất là “sắn sâm Cao Ly”.
Mười năm sau tôi về lại lên núi Ngự Bình. Những cây thông nhỏ như chân chim sơn ca thuở nào bây giờ đã lớn. Tàng cây xanh như mái tóc thề che phủ cả phong sương. Tôi lặng lẽ ngồi dựa dưới bóng thông chiều. Mười năm trước gió núi xao xác về thổi bay tóc mây của học trò, bây giờ đã có những lá thông thay tóc mây rì rào với gió. Mười năm đếm được trên những nhánh thông, nhưng bóng dáng cũ thì vẫn còn mường tượng trước mắt. Dáng xuôi ngược của anh Châu Trọng Ngô, tiếng dậy rừng của Nguyễn Hữu Châu Phan, khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi của chị Lưu Ty, bàn tay trồng cây mà vẫn nhẹ nhàng quý phái như chơi đàn nguyệt của chị Bích Đào...
Chiều nay, có tiếng cười nói vang vang trẻ thơ vang vọng dưới chân đồi. Các em có thể về đây cắm trại, du ngọan hay cào lá khô về nhóm lửa. “Núi Ngự không cây chim đậu đất!” một thời nay đã thành đồi thông xanh mướt. Tôi ngây ngất giữa tiếng đồi vọng của gió, của núi, của thung lũng, của ai đó ở lưng chừng đồi. Vẫn còn nghe đâu đây tiếng đọc thơ nhè nhẹ của thầy Nguyễn Đình Niên – thi sĩ Tường Phong của trường Đồng Khánh; tiếng còi thầy gọi trò cho khỏi bị lạc...
Mười năm trôi qua nhanh như mới buổi chiều hôm trước. Thế hệ đàn em của tôi có ai còn nhớ những giờ lao động thời đó khi ngồi dưới rừng thông xanh hôm nay.
Tôi vẫn nhớ “sắn sâm” Đồng Khánh như một ý niệm ngồ ngộ về Phượng và Sắn giữa sân trường nhưng chưa bao giờ được ăn thử. Ngày trước khi mới bới sắn về thì thầy trò chỉ mong có chén cơm trắng không độn khoai sắn nên chưa ăn, mà mãi khi đến xứ người thì chỉ có sắn Tàu hay sắn Thái. “Sắn sâm” ngỡ như đã trở thành huyền thoại giống chuyện củ sâm nghìn năm để luyện thuốc truờng sinh trong chuyện kiếm hiệp Tàu, ai ngờ cũng có một ngày đẹp trời “sắn sâm” trở lại với tôi trên đất Mỹ làm khuấy động mặt hồ ký ức tưởng như không còn vướng vất chuyện ngày qua.
Một người học trò Đồng Khánh cũ qua Mỹ với chồng theo diện H.O và tình cờ ghi danh vào học lớp ngôn ngữ do tôi phụ trách. Ngày mồng một Tết con cọp năm nay nhằm ngày thứ Tư, nên tôi vẫn lên lớp như thường lệ. Vài sinh viên Việt Nam vắng mặt đón Xuân. Những sinh viên Mỹ cũng chỉ biết ngày thứ Tư là ngày có lớp như mọi thứ Tư khác trong tuần. Thế thôi. Cuối giờ, cô sinh viên cựu học sinh Đồng Khánh tặng cho tôi một món quà Tết nho nhỏ với lời chúc “vạn sự như ý”. Lên xe, mở quà ra tôi bỗng cảm thấy vui như mùa Xuân khi đọc mảnh giấy nhỏ kèm với hai củ sắn, bở trắng, phảng phất mùi lá dứa và hương cau. Miếng giấy ghi: “Kính tặng thầy ‘sắn sâm Đồng Khánh,’ do ông xã em trồng trong chậu kiểng đó thầy”. Tôi ăn củ sắn. Tôi không còn nhớ hương vị sắn Đồng Khánh ngày đó có ngon như thế hay không. Nhưng dù ngon hay dở mà củ sắn do chính những bàn tay bút nghiên của học trò mình làm ra thì đối với thầy, dù buôn một, lỗ ba mươi cũng thật đáng đồng tiền bát gạo.
Tay cầm miếng sắn, tay cầm vô lăng, tôi lái đi trong giòng xe như giòng đời lao nhanh vun vút trên xa lộ vô tình vào ngày Tết thiêng liêng. Sự dửng dưng của phố xá quê người làm tôi thấy xót xa và nhớ quê nhà, nhớ những kỷ niệm đã thành chuyện kể. Giờ đây, những củ sắn thôi mọc chung giữa sân trường phượng đỏ và ước chi những củ sắn mọc lên tự tiềm thức cũng không còn. Tà áo trắng đã trở lại trường Đồng Khánh: “Một thời để yêu” đã thắng “một thời để chết”. Quốc Học – Đồng Khánh, hai ngôi trường cặp đôi đó vẫn tiếp tục vẽ thêm cho Huế những nét đẹp không tàn phai.
Chút tâm sự cá hồi
Nghĩ đến tuổi trăm năm Quốc Học Đồng Khánh, nhìn những mái tóc bạc và dáng vẻ chiều hôm của quýù Thầy, Cô cùng những mái tóc muối tiêu và dấu vết quá nửa đời của bạn cũ trong những dịp họp mặt thân hữu Quốc Học Đồng Khánh, tôi lại nhớ mấy câu thơ trong một bài nào đó của Lưu Trần Nguyễn, tác giả bài “Đồng Khánh Năm Xưa”:
Rồi mai tê tuổi già bóng xế
Đem nghìn trùng về giữa hư không.
Tuổi già bóng xế là con đường trăm sông về một cõi không ai tránh được. Nhưng có chăng một giao điểm giữa nghìn trùng và hư không để hai đối cực nầy về lại với nhau. Cho đến những năm đầu tiên định cư trên đất Mỹ, tôi thường nghĩ về Huế như một “Lầu Hoàng Hạc” trong thơ thôi Hiệu ngày xưa mà ở đó, những đứa con của Huế ra đi là những con hạc vàng một đi không trở lại (hoàng hạc nhất khứ bất phục phản). Ít nhất cũng là không trở lại được tổ ấm cũ chẳng còn hiện hữu của mình.
Với cuộc sống mới, tôi đi tìm một tổ ấm khác và ngỡ như dễ dàng quên đi cái tổ cũ quá đơn sơ kết bằng cọng rơm và tranh tre, lau lách. Hình như thực tế xuôi dòng theo thời gian đã dẫn tôi về một hướng ngược lại. Càng ngày, sự hội nhập của tôi vào xã hội mới càng chững lại. Khác với lý thuyết “Bốn biển một nhà” (Melting Pot) mà những người Mỹ tiền phong ước đoán rằng, tất cả các dân tộc hợp chủng di cư vào đất Mỹ sẽ hoà hợp, trộn lẫn với nhau trong cái “Nồi Xúp Nóng Chảy” Hoa Kỳ thành một hợp thể thống nhất, thực tế không đồng tình với sự ước đoán. Thực tế, xãõ hội Hoa Kỳ là một “tô rau tập tàng” (Salad Bowl) mà trong đó mỗi dân tộc và mỗi nhóm người vẫn giữ riêng bản sắc của mình. Tất cả đều mang “tinh thần quân tử” của Khổng Tử “hoà nhi bất đồng”. Và dĩ nhiên người Việt, dù có tha thiết và nóng lòng muốn Mỹ hóa đến mức nào đi nữa thì cũng đành phải “em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!” Nghĩa là biết bao giờ mới đổi được vóc dáng Việt Nam thành “người em mắt nâu, tóc vàng sợi nhỏ” như người đẹp Paris của Cung Trầm Tưởng.
Sau hơn 20 năm “nội chiến từng giờ” với chính mình trên đất Mỹ để sống còn và vươn lên, ngoảnh mặt lại tôi ngỡ ngàng tự hỏi: “Tôi là ai?” Thời gian đủ dài để biến một đứa bé sơ sinh thành một người trưởng thành trẻ tuổi. Hoàn cảnh đủ mạnh và chín mùi để sản xuất một mẫu thanh niên Mỹ từ ngôn ngữ đến tư tưởng, từ cách sống đến cách nhìn. Riêng mình, cũng giống như những người Việt cùng thời và cùng trang lứa, tôi xông xáo cố hội nhập vào đời sống Mỹ càng nhanh càng dễ sống. Tôi cố luyện giọng nói tiếng Ăng Lê âm mũi cho dẽo, xông xáo vào xã hội Mỹ cho sâu, làm quen với mùi chiên (fried), mùi hun khói (smoked), mùi xốt cà chua (catchup)… càng ít bị dị ứng càng tốt.
Năm bảy năm đầu tiên, đã có lúc tôi bùi ngùi khi tự thấy rằng, mình thật sự đã xa Việt Nam hàng vạn dặm về cả địa lý, tâm lý và tri lý. Tôi hân hoan đi vào xã hội Mỹ không còn những bước chân khập khiểng. Tôi bằng lòng với chính bản thân mình, gia đình mình và xã hội xung quanh. Tôi có những gì thuộc về đời sống tinh thần, vật chất và tri thức mà một người Mỹ trung bình muốn có. Nhưng sau những tháng ngày dài phấn đấu không mõi mệt ở quê người, từng sợi tóc đổi ra mầu bạc và những phù hoa bám bụi trong tôi cũng dần dà rơi xuống và mất dấu để cái lõi của mình lù lù hiện ra như một sự thách đố khi nhẹ nhàng, khi ray rứt, khi bão liệt… mỗi ngày một đậm nét.
Hơn mười năm sau, càng ngày tôi càng khám phá ra rằng, bản thân mình là một thứ gà cồ ăn quẩn cối xay, một sản phẩm bằng da đã thuộc, một gã Xã Xệ ngồi bên bờ biển xanh Miami, Monterey với Tây Đầm mà cứ mặc áo dài, chống dù đòi “ta về ta tắm ao ta!” Nói một cách thật thà thì dẫu sao tôi cũng là người tiến bộ trong đám chậm tiến vì tôi biết tỏng là mình chậm tiến. Nhưng cũng có người nằm ngủ khoèo trong lòng máy bay mà cứ ngỡ mình đang bay thiệt như có cánh thiên thần, ngồi trên lưng ngựa mà cứ tưởng mình tung vó. Nói rằng họ đứng một chỗ cũng không đúng, mà nói họ đang bay cũng không ổn. Đứng một chỗ sao lại từ Mỹ về Việt Nam được; mà đang bay thì tại sao vẫn nhắm mắt nằm nguyên một nơi trên ghế nệm. Hai đối cực nghìn trùng và hư không đang gặp nhau ở điểm nầy chăng? Dòng sống như chiếc máy bay đang lao nhanh vun vút về phía trước mà tôi vẫn dừng lại giữa lòng cuộc đời. Tôi bay vì quả địa cầu đang quay vun vút và cánh máy bay chẻ mây vượt gió trôi đi. Nhưng đứng lại vì nhìn bóng mình cũng chỉ là bóng đổ tường xiêu trên vách đời đã cũ.
Hai thập niên qua rồi mà mỗi chiều thứ sáu, tôi vẫn lao đao giã từ thế giới Mỹ, bương bả đi tìm bạn ta. “Bạn ta” trong khái niệm của riêng tôi không nhiêu khê như khái niệm “quân tử chi giao” của truyền thống Á Đông. Tôi chỉ cần được ngồi với những người anh em nói chung một ngôn ngữ; chung một bối cảnh văn hóa và xã hội của đất nước mà mình lớn lên; chung một khái niệm vui buồn để cùng chia sẻ. Nếu có khen nhau thì sự cảm động cũng sâu hơn, cãi nhau cũng ít hiểu lầm ý nhau hơn và lỡ có nói “kháy” nhau thì cũng thấm thía hơn. Cái “hơn” với bạn ta là cái “thua” với bạn Mỹ. Đã nhiều lần ngồi trong những bữa tiệc họp mặt của người Mỹ toàn ròn, tôi cảm thấy cô đơn và lạc lõng vì bản chất thực tế của người Mỹ, họ muốn nói đến những điều thiết thân xảy ra cận kề với cuộc sống hàng ngày như thể thao, báo chí, phim ảnh, kỹ thuật; trong khi tôi mang bản chất mơ mộng của dân ta, thích nói chuyện thời sự quốc tế, văn chương, triết học, nghệ thuật. Có một lần tôi mang chuyện Kiều ra khoe. Khi nói đến tài mệnh tương đố “chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” thì một người bạn Mỹ không hiểu tại sao chuyện đời lại có sự kỳ quặc đến thế. Bằng tinh thần lý tính phương Tây, anh bạn Mỹ nói rằng, tài và mệnh “thương nhau” hỗ trợ cho nhau chứ làm sao lại ghét nhau được. Như Bill Gate có tài nên cái “mệnh” của anh ta là đại tỷ phú đó mà...!
Thế hệ thứ nhất của chúng tôi nơi quê người có vẻ rất giống những chiếc lá vàng, càng già càng rủ xuống gần cành và rụng dần về cội, càng ngày càng muốn rủ bỏ cái thế giới nghìn trùng xa cách “vĩnh vi lãng đãng phong trần khách” để tìm lại chính mình. Có một thế giới như vùng đất hứa chẳng phải bên nầy hay bên kia mà cũng chẳng phải nơi nào trên trái đất. Đó là thế giới nguồn cội, thế giới xao xuyến của loại cá Hồi (Salmon), năm năm lũ lượt kéo về nguồn như một sự thôi thúc vô hình, thiêng liêng mà không một trở lực nào ngăn cản nổi.
Cứ tưởng mình lẩn thẩn vì tinh thần “về nguồn” thường xuyên nằm sâu trong cảm xúc. Nhưng khi cùng sinh hoạt và chia sẻ tâm tình với Thầy, Cô và đồng nghiệp Quốc Học, Đồng Khánh của tôi một thời ở Huế, tôi mới nhận ra Thầy, Cô và bạn bè của tôi vẫn còn là bậc thầy, là bạn đồng hành, đồng điệu trong cảm xúc về nguồn đó.
Nguồn trăm năm còn đọng lại nụ cười. Ở phía bên nầy, có người vẫn đang tìm về một thời Quốc Học-Đồng Khánh từ ngõ Huế xưa. Một thời mà mãi mãi.
Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4
TƯỢNG ĐÀI
CÔNG CHÚA HUYỀN TRÂN
Thật thú vị, tôi nhận được tin mình “chết”, sau buổi cơm chay với thầy Thiện Niệm, thầy Tịnh Quang, anh Cao Huy Thuần và anh Cũng ở chùa Khuông Việt tại Paris. Thư “email” của Hà Trọng Được từ Huế báo tin rằng: “Vừa ngồi lai rai trên sân thượng của khách sạn Hương Giang với thầy Tường, thầy Dũng, cô Lan, có người mới nhắc đến anh xong, ghé đến anh Xuân thì anh ấy cho biết là nhà thơ Nguyệt Đình báo tin TKĐ... chết rồi!” Hơn 35 năm chưa gặp lại thầy cô và bạn bè một thuở xôn xao xuống đường, xuống hố đã vội “xuôi vè” thì đời mất hết cả mùa vui. Nếu nói “làm đày” theo kiểu Huế thì: “Lang thang cũng ngang bến đò, lò dò cũng tới chợ Dinh. Lật đật lanh chanh đi mô cho vội” !
Cái ga chính của những chuyến tàu đời rồi ai cũng phải tới. Cõi đi về đó ngỡ như quá xa xăm, nhưng có khi lại gần trong nháy mắt ấy không biết có đẹp như chốn Thiên Thai của hai chàng Lưu Nguyễn hay đầy cả lửa hận như cõi A Tỳ của Mục Liên Thanh Đề, nhưng lại có một sức mời gọi thật kỳ bí: Không ai biết cõi đó mô tê như thế nào, vậy mà ai cũng xăng văng lo dọn đường đi tới. Những con đường thập tự chông gai, những con đường tu trì khổ hạnh hay những đại lộ phong quang nạm ngọc dát vàng – về thiên đàng hay niết bàn – rất mơ hồ nhưng lại cứ hiển hiện trêu ngươi như một thách đố siêu hình với kiếp người èo uột. Về trước hay về sau thì cũng phải về thôi. Nhưng về mà chưa mua sẵn vé tàu “suốt” một đi không trở lại; hay chưa chuẩn bị hành lý là cái tâm rỗng lặng và hai bàn tay không, bất ngờ bị ông số phận hối hả lôi đi trong cảnh dùng dằng nửa ở nửa về thì còn chi là... thơ mộng!
Chiều Paris, cũng là những buổi chiều New York, San Francisco... đối với người mang tâm sự “u ẩn chiều lưu lạc”. Nhưng với tâm lý mơ màng từ quá khứ thì “Paris by Night” là một viễn ảnh huy hoàng, một nếp đời có vẻ như văn minh và sang cả đối với biết bao nhiêu người bạn nghèo của tôi đang còn ngày lại ngày tranh sống ở làng quê. Để biết rõ là mình đang về Tây phương trần thế, chứ chẳng phải Tây phương... Cực lạc, tối hôm đó, tôi theo thầy Thiện Niệm và anh Cũng ghé quán nước bên bờ sông Seine trong lớp khói sương váng vất heo may của một Paris chuẩn bị vào thu. Tôi uống một ngụm cà phê hè phố Tây, rồi thở thật sâu để cho hương vị cà phê Ba Lê báo với ông Tây nhà đèn ở cầu Kho Rèn Huế là gã Cơm Hến vẫn còn sống đai hoai bên xứ nầy cho tới khi nào không thích lang bạt kỳ hồ nữa mới sửa soạn khăn gói quả mướp để bương chải về quê... với mạ. Gã chỉ đội đàng than dạ từ Mỹ qua Tây – Đây quả tình là Tây Phương cực nhọc chứ không phải Tây Phương cực lạc đâu nhé– để tối nay ngồi lặng lẽ cảm thương cho một chiếc cầu còn hiện hữu mà đã như hạc vàng của Thôi Hiệu khuất bóng từ xưa: Cầu Mirabeau của Appolinaire! “Sous le pont Mirabeau coule la Seine...” – Dưới cầu Mirabeau, sông Seine thầm lặng chảy, tình chúng ta đi mãi, vui với buồn theo nhau.
Sông Seine cũng dài và nhỏ nhắn, nước xanh, nhưng không trong vắt tới độ nhìn thấy được cả những đàn cá bơi lội quanh đám rong rêu vật vờ theo con nước như sông Hương. Thế nhưng giòng sông đó có đến 37 chiếc cầu bắt qua và những hàng cây giam bóng tối thời Napoléon đã thành những dãy lâu đài san sát . Tiếc thật, cầu nhiều quá, trông như những hàng nhẫn hột xoàn lóng lánh vô tri che khuất nét ngây tròn, kiều mỵ của ngón tay búp măng chỉ đẹp vì một bàn tay trần phong sương khác! Cầu Mirabeau đã theo những vần thơ của Appolinaire để đi vào văn học sử thế giới. Thế nhưng đêm nay, ngay cả những người sống ở Paris hơn 30 năm mà vẫn tìm không ra chiếc cầu tình tự đó. Chạy loanh quanh hoài hai bên bờ sông Seine lưng cả bầu xăng chiếc xe Renault của anh Cũng, chúng tôi mới tìm ra cầu Mirabeau. Cầu Mirabeau đã mất tên và chỉ còn hàng chữ “Mirabeau” nhạt mờ nằm khuất bên lề đường Convention cũ kỹ như chiếc áo the thâm tàn tạ của anh hàn sĩ ngày xưa. Đợi càphê rơi từng giọt trong quán càphê giữa hè phố bên cầu, bằng một tâm trạng lãng tử, cạnh một nhà tu và một chàng yêu văn nghệ, tôi lơ mơ suy nghĩ về chuyện ban chiều và chút triết lý còm về ý nghĩa của sự sống chết. Chết không phải là khuất bóng, mà khuất bóng cũng chưa hẳn đã là chết. Chết là còn sống sờ sờ ra đó hay đi đâu mất đất từ khuya mà không ai thấy, như chiếc cầu Mirabeau trơ vơ nhìn sông Seine thầm lặng chảy. Khách qua cầu hình như chẳng còn ai “ngã nón trông cầu”. Người đời ngắm nhìn dòng sông đang chảy mà quên đi cầu kia vàsông nước ấy đã một quấn quýt bên nhau...
Phố xá Paris ngủ sớm hơn tôi nghĩ. Có lẽ trời vào Thu về đêm hơi lạnh nên dân Parisien thích ngồi bên nhau dưới những mái nhàấm áp hơn làlang bạt trên đường phố về khuya. Có vẻ như đêm Á Châu dài hơn đêm Âu Châu vì sự trầm mặc và đêm Âu Châu dài hơn đêm Mỹ Châu vì sự cổ kính. “Nằm gắng cũng không thành mộng được...”, nên tôi khoác áo đi lang thang trên đường lúc 2 giờ sáng. Tôi ước chi Paris là Sàigòn giữa mùa bóng đá để kiếm được một cốc cà phê ho hen của ông già bán cà phê đêm đầu ngõ hẻm.
Cái cảm giác về đêm của chàng nghệ sĩ lãng tử da đen, Vince Milton, truyền qua tôi: “Đêm Âu Châu trò chuyện. Đêm Mỹ Châu lạnh lùng. Đền đài lên tiếng nói. Mây cúi xuống giòng sông...” Cố đi tìm một quán hàng nào đó mở thường trực (24 hours) như ở Mỹ nhưng không có, tôi không hiểu được Milton vì đêm Mỹ Châu có bao giờ nằm ngủ mà sao đến nỗi lạnh lùng.
Giữa lòng đêm, một mình tôi mà sao lại nhiều bóng thế. Bóng in trên vách, bóng đổ bên đường, bóng trãi dài với lá. Có lẽ vì đèn nhiều quá nên ánh sáng tranh nhau soi bóng một người chưa quen. Đêm nơi đây có mùi hương quyến luyến và cảm giác heo may của một mệnh phụ chưa về chiều nhưng đã qua tuổi mùa thu không còn nóng bỏng. Mùa Thu ở đâu cũng thế, đó là mùa trở về. Lá trở về cội và con người trở lại với chính mình. Khi tôi không còn dáo dác tìm quanh một đối tượng ngoài mình, tôi bỗng trở lại với sự lắng đọng trong trí tưởng và cảm nhận của chính mình thì bỗng nghe nỗi xôn xao vừa đến. Có ai đó trò chuyện. Có ai đó rất quen. Có ai đó trỗi dậy từ một cõi sơ xưa tưởng như không còn trong ký ức. Đêm rực rỡ ngã vàng với ánh đèn chiếu hắt qua những hàng cây phong thẳng tắp khắp các con đường làm nổi bật một nét đặc thù rất Âu Châu, đó là sự phong phú quá độ của tượng đài kỷ niệm. Những khuôn mặt của nhiều thế kỷ lao xao trò chuyện với nhau suốt canh trường bằng một ngôn ngữ của rêu phong, mây và gió. Nơi đây, chiến công hiển hách cũng như gục ngã đau thương, huy hoàng cũng như khổ nhục, ngai vàng cũng như pháp trường, thánh cũng như quỷ, địa ngục cũng như thiên đường... đều được ghi khắc lại trên thạch cao, trên bia, trên vách, trên đá, trên đồng. Ô! Thì ra đêm Âu Châu đang trò chuyện. Những tượng đài và miếu đền kỷ niệm đang nói với nhau, nói với người viễn khách bằng một ngôn ngữ vắng lặng phi thường. Tượng đài nơi đây không xa cách như Mỹ Châu, không trùm khăn vải điều im lìm trong am miếu như Á Châu mà đứng dưới vòm trời mở rộng, đối diện với sự phong quang và u ám giữa cuộc đời thường. Hầu như đặc tính chung của các hình tượng nơi đền đài kỷ niệm ở Âu Châu đều ở trong tư thế hành động. Nhà nghệ sĩ tạo hình nắm bắt những giây phút gây ấn tượng sâu xa và mạnh mẽ nhất trong dòng sống và hành động của đối tượng được tạo hình để tạc tượng.
Tôi nghĩ đến Huế, Quảng Trị, Hội An... đến sự vắng bóng tượng đài trong những cổ thành u tịch. Xa Huế, tôi chỉ còn nhớ hàng tượng đá đứng trơ vơ trên sân chầu lăng Gia Long, Minh Mạng. Một thế hệ chiến tranh Việt Nam sắp đi qua, tôi vẫn chưa nhìn được môt tượng đài kỷ niệm có tầm cỡ “dễ nhớ mà khó quên” nơi vùng đất mà nhiều người đã không tiếc giấy mực để thổn thức nầy. Nghĩ về một tượng đài Huyền Trân Công Chúa ở Huế mà nhiều người vẫn thiết tha đề xướng trong bao năm rồi nhưng vẫn còn trong lòng đất của sơ đồ và ý tưởng... tôi muốn được nói lên niềm mong ước và chia sẻ.
Am miếu và tượng đài
Khái niệm tượng đài cổ xưa nhất xuất phát từ bản năng sinh tồn của loài người. Con người dùng thực thể thiên nhiên để ghi dấu chân và kinh nghiệm của mình: Nhớ một ngọn núi cao có nước ngọt và cây trái; ghi dấu mỏm đá có nhiều thú vật dễ săn; để ý một lùm cây có kẻ thù rình mò ẩn núp... Dần dà, khi con người đã thắng được cái ăn thì nhu cầu tinh thần thể hiện. Am, miếu, tượng, đài xuất hiện sớm nhất là những sản phẩm nghệ thuật dân gian phục vụ cho sự chiêm bái thần linh và lên cao một bước nữa là đức tin tôn giáo.
Có lẽ ít người đồng ý với một nhà khảo cứu tượng đài gốc Á Châu, Ronald D. Young, khi ông viết trong “Methods of Modern Sculpture” ( các phương pháp điêu khắc hiện đại) rằng, sự nghèo khổ và lạc hậu của Châu Á đã làm vắng bóng ngành điêu khắc trong kho tàng tượng đài ít ỏi của vùng đất nầy. Young chỉ đứng trên bình diện kinh tế và xã hội để bình luận mà quên đi rằng tượng đài cũng là một phần “thượng tầng kiến trúc” của văn hóa. Tượng đài là cách thể hiện cụ thể mối cảm nhận quá khứ, sự định hình khái niệm nghệ thuật của hiện tại và dự phóng về tương lai theo dòng lịch sư.û
Từ tự nhiên khách quan thuần túy, đến bàn tay nghệ thuật sáng tạo của con người thuần túy là cả một quá trình đầy gian nan và khổ hạnh. Đó là một cuộc hành trình dài thăm thẳm để những nhà nghệ sĩ thay mặt cho nhân loại thổi linh hồn vào đất đá vô tri. Hay nói một cách văn vẻ như Jane Whitney, những người “thổi linh hồn vào thế giới hoang lạnh (the blowers of souls to the cold) là những cánh tay nối dài của đấng Sáng Thế để bắc cầu ký ức từ quá khứ đến hiện tại và về tương lai. Những nghệ sĩ khắc họa tài danh của nhân lọai như Michelangelo, Leonardo da Vinci, Donatello, Bernini... đã “giải phóng” những chân dung, hình tượng, đường nét tuyệt vời ra khỏi những khối đá vô tri.
Tuy nhiên qui mô thực hiện công trình tượng đài, mức độ diễn cảm và nghệ thuật tạo hình tùy thuộc vào tài năng của nhà nghệ sĩ đã đành; nhưng ảnh hưởng tính thời thượng của xã hội, khuynh hướng của quần chúng và sự khống chế của thế lực lãnh đạo đương thời cũng có một tác động sâu rộng trên sự hình thành các mô thức tượng đài. Bởi vậy nhà nghệ sĩ khắc họa tượng đài vừa có tự do, vừa bị khống chế trong sáng tạo. Nhưng chính chân tài mới là đôi cánh vạn năng đủ sức bay đến những chân trời tự do xa thẳm của nghệ thuật. Như Michelangelo cũng đã bị lôi kéo mãnh liệt giữa hai thế lực thế quyền và giáo quyền của Florence và Roma trong bối cảnh tôn giáo và chính trị tác động lên nhau của thế kỷ 16 tại Âu Châu. Nhưng tài năng kiệt xuất của Michelangelo đã giúp ông vượt qua những hệ lụy nhân sinh để bay lượn thênh thang trong cung trời sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm Ngày Phán Xét Cuối Cùng ( The Last Judgement) của Michelangelo trong nhà thờ Sistine ở Tòa Thánh La Mã với hơn 400 hình tượng – từ Chúa Jesus thánh thiện đến kẻ có tội bị đày xuống hỏa ngục – là một sự thắng lợi huy hoàng của nghệ thuật bao la trước sức mạnh của quyền lực và định kiến giới hạn của con người.
Tượng đài là ấn kiếm tượng trưng của một nền văn minh và một bối cảnh văn hóa trong từng thời kỳ nhất định. Từ những dấu tích của người vượn Bắc Kinh 500 nghìn năm trước đến dấu chân của Columbus đến Mỹ châu năm 1492 là một dòng lịch sử chằng chịt vô số mảng văn minh và văn hóa muôn màu muôn vẻ của nhân loại. Nhưng hai cái khung văn hóa lớn nhất vẫn là hai vùng địa lý: Đông và Tây.
Văn hóa Đông Tây khác nhau từ bản chất, nên tính cách thể hiện những công trình văn hóa cũng phản ánh hai thế giới tinh thần và thể chất khác nhau.
Bản chất văn hóa giữa Đông và Tây thuộc về hai thái cực. Văn hoá Đông phương thiên về mặt tĩnh, trong lúc văn hóa Tây phương ở phía động. Đông phương chọn đêm làm mốc thời gian, chọn ngày chết làm ngày tưởng nhớ. Cõi trầm tư và im lặng là cõi vĩnh hằng. Nên người phương Đông cất dấu những hình tượng, danh xưng, gia tài quý báu vào chỗ trú ẩån riêng tư như kiêng tên, cữ họ; phủ mặt những tượng ảnh thờ. Tây phương thì ngược lại, họ lấy ngày làm mốc thời gian, chọn ngày sinh làm ngày kỷ niệm. Khi sùng kính một nhân vật nào đó thì người phương Tây đem ra chốn phồn hoa đô hội; nhận diện, nêu danh để phô trương thanh thế, trưng bày ảnh tượng giữa những công trường. Bởi vậy, khi nói đến nghệ thuật tượng đài, nhân loại vẫn có cái chung là ý hướng ghi khắc để nhớ. Nhưng ghi khắc như thế nào và nhớ theo cách suy tưởng của từng thời kỳ và hoàn cảnh văn hóa cụ thể ở đâu vẫn còn là một câu hỏi và một câu trả lời không đơn giản.
Tại Á Châu, đặc biệt là Trung Hoa, Nhật Bản, Ấn Độ… tượng đài xuất hiện rất sớm, từ nhiều thế kỷ trước Công nguyên. Ở Trung Hoa, đến đời nhà Chu thì việc ghi khắc xây dựng tượng đài đã được thực hiện và hoàn thành đến mức chuẩn mực.
Theo truyền thống cổ điển Việt Nam, mỗi nhà đều có bàn thờ tổ tiên; mỗi xóm đều có am miếu, mỗi làng đều có đình chùa để thờ phụng các đấng tiền nhân có công khai sáng hương thôn và những anh hùng liệt nữ đã hy sinh cho đất nước. Thật ra, Việt Nam và các nước ở phương Đông không thiếu vắng tượng đài như Young nhận định. Nhưng tượng đài phương Đông ở dưới dạng tiềm ẩn trong núi non, hang động; hay chỉ được đặt để ở chốn tôn nghiêm như đình chùa am miếu.
Tượng đài là một công trình nghệ thuật kết hợp cả ba loại hình nghệ thuật: Hội họa, điêu khắc và kiến trúc. Ở các nước Âu Châu mà đứng đầu là Ý, khái niệm tượng đài được thực hiện một cách rõ nét và chặt chẽ. Nét điển hình nhất cho một công trình tượng đài hoàn chỉnh là tượng đứng trên đài. Thường “Tượng” là một tác phẩm điêu khắc và “Đài” là một tác phẩm kiến trúc nghệ thuật minh họa cho bối cảnh lịch sử của tượng. Lý tưởng nhất là khi một công trình tượng đài hoàn chỉnh được dựng lên tại một ngôi đền, trước một cung điện hay giữa một khung cảnh lịch sử. Khái niệm “đền đài, cung điện” trở thành tiêu biểu ở Âu Châu và Mỹ Châu hơn là ở Á Châu. Nếu tượng David không được đặt ở giáo đường Saint Peter ở Florence của Ý; tượng Jeanne d’Arc không đặt ở Paris của Pháp; tượng Churchill không đặt ở công trường Parliament – London của Anh; tượng Nữ thần Tự do không đặt ở cảng New York của Mỹ... thì linh hồn tượng đài sẽ mất đi sự rung cảm vô hình nhưng rất thiêng liêng và mãnh liệt của con người giới hạn đối diện với dòng lịch sử vô cùng.
Xung quanh tượng đài Huyền Trân Công Chúa
Một tượng đài điển hình thường mang ba đặc tính tiêu biểu có thể xếp theo thứ tự ưu tiên như sau:
1. Có giá trị về nghệ thuật
2. Có ý nghĩa về lịch sử
3. Có tính đại chúng
Trong lịch sử khoảng chừng 5000 năm trở lại của nhân loại, tính từ thời kỳ Đồ Đá cổ Ai Cập và Trung Hoa đến nay, đã có hằng hà sa số những tác phẩm mỹ thuật điêu khắc, những tượng đài lớn nhỏ dựng lên từ trong hang động thâm u đến những công trường chói sáng. Vật liệu có thể thay đổi từ dạng đất sét nung, đá, gỗ, đồng, thạch cao và hiếm hoi hơn là vàng hay ngọc. Sự gạn lọc của nghệ thuật cũng rất khắt khe từ phía người đương thời và lớp lớp đời sau. Những tượng đài còn tồn tại trong ký ức nhân loại qua sách vở hay bằng hình dáng hiện thực sống động ngày nay đều là những tác phẩm nghệ thuật thời danh và bất hủ. Đã có biết bao nhiêu tượng đài xuất hiện và mai một vì thiếu vắng công trình và tài năng nghệ thuật tác tạo ra chúng, nên đã bị quên lãng như những khối vật chất nguyên sơ chưa từng được khai phá. Tuy nhiên, khái niệm về tượng đài được phô diễn một cách hòan chỉnh và đại chúng xuất hiện từ khoảng năm 600 trước Tây Lịch tại Ai Cập. Người Ai Cập quan niệm rằng, chân dung của con người là tiêu chuẩn của tất cả thế giới vật lý. Hình tượng Appolo đứng vươn vai, không một mảnh vải che thân hay những bức tượng Nhân sư (đầu người, mình sư tử), Nhân ngư (nửa người nửa cá) trong ngành điêu khắc cổ Hy Lạp thường được xem như là khởi điểm nghệ thuật của ngành điêu khắc sau nầy. Và con đường thiên lý đó kéo dài cả 15 thế kỷ sau mới có những Auguste Rodin, Daniel Amony, Michel Colombe (Pháp); Giovannni Bernini, Michelangelo (Ý)... xuất hiện.
Mỗi tượng đài đều mang theo một dòng lịch sử, dù là thực chất hay huyền thoại, xung quanh. Tượng đài có thể mang nội dung lịch sử thần kỳ của một xã hội, một đất nước, một tổ chức. Hoặc tượng đài để vinh danh, tri ân, tôn sùng một nhân vật lịch sử của một thời kỳ, một xã hội hay một quốc gia hay một tôn giáo nào đó như tượng Phù Đổng Thiên Vương, Trần Hưng Đạo, Hai Bà Trưng (Việt Nam); David, Moses (Ý); Napoleon, Jeanne d’Arc (Pháp); George Washington, Abraham Lincoln (Mỹ)...
Trong một số trường hợp, tượng đài là một biểu tượng nói lên một cách vừa trực tiếp, vừa gián tiếp nội dung của lịch sử, của một biến cố, một sự kiện hay một nghĩa cử. Như đài kỷ niệm Monument du Lion ở Luzern, Thụy Sĩ là một biểu tượng đầy xúc động về sự hy sinh của những chiến sĩ can trường đã chết một cách anh dũng cho quê hương được tồn tại và hồi sinh. Đến viếng đài kỷ niệm nầy vào một sáng trời mưa, nhìn hình tượng xuyên qua đôi dòng lịch sử “chiến sĩ vô danh” khắc sâu trên đá, tôi cảm thấy xúc động đến lạnh người. Tất cả biểu tượng chỉ là hình ảnh một con sư tử già được tạc ngay trong núi đá, lớn ngang tầm trái núi. Con sư tử nằm chết một cách can trường với vẻ mặt vừa uy nghi vừa đau đớn; chuôi đao còn cắm phập trên lưng. Nét thần kỳ tỏa ra trên bức tượng nầy là dáng gục ngã hào hùng như người xưa thường nói: “Luận anh hùng chớ kể hơn thua!” Có những tượng đài gây một ấn tượng lạ lùng và sâu lắng vì nghệ thuật kiến trúc độc đáo một cách bất ngờ như “Tháp bút chì” – Đài kỷ niệm Washington hay “Bức tường tiếc thương” đen tuyền và lạnh bóng đặt sâu dưới lòng đất – ghi tên 55 nghìn lính Mỹ tử trận trong cuộc chiến Việt Nam được xây dựng tại Washington DC. Hoặc tượng đài chỉ nhằm nói lên một ý niệm như tượng Nữ thần Tự do ở New York.
Tính đại chúng cũng là một nét tiêu biểu không thể vắng bóng trong thế giới tượng đài. Tượng đài rất khác với một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc thuần túy vì đối tượng quan chiêm tượng đài là quần chúng đủ mọi trình độ học vấn, mọi trường phái nghệ thuật, mọi thành phần và giai cấp xã hội. Một tượng đài được xem có tính đại chúng cao khi cái “thông điệp” mà những nhà xây dựng tượng đài muốn nói lên có thể truyền đạt đến được cả tâm hồn và nhận thức của mọi lớp quần chúng từ kẻ mù chữ đến hàng thức giả; từ khách phương Đông đến khách phương Tây. Ngôn ngữ của tượng đài, vì thế, là một loại ngôn ngữ phổ cập và đại chúng vượt ra ngoài biên giới của thời gian, không gian và chủng tộc.
Khi nói đến một tượng đài Huyền Trân Công Chúa có khả năng xây dựng ở Huế, mọi người đều có những ý tưởng vừa rất rõ nét, vừa rất mơ hồ; vữa lãng mạn, vừa thực tế một cách... đáng yêu!
Trước hết là động cơ xây dựng tượng đài có vẻ như đã chín muồi sau một chuỗi thời gian dài suy tư... 700 năm! Những học giả có thẩm quyền như các nhà Huế học, cổ học, sử học, mỹ học và... “tư”ï học ... đã nhiệt thành nói lên ý kiến của mình qua phương tiện truyền thông đại chúng hay riêng tư đều đồng ý rằng thời gian chờ đợi suốt bảy thế kỷ có... hơi lâu. Từ ý niệm đến hiện thực có thể chỉ là một chiếc cầu ao, mà cũng có thể là chiếc cầu Ô Thước “thấy có mà ngó không” thêm dăm ba thế kỷ nữakhông chừng!
Nếu mượn tạm cái đề cương “5W” của chủ nghĩa thực dụng Mỹ mỗi khi lập đề án cho một công trình thì vấn đề được đặt ra là: (1) Cần xác định rõ ràng nội dung, ý nghĩa của công việc sắp thực hiện (What); (2) mục đích và yêu cầu của công trình (Why); (3) ai sẽ là người đứng ra thực hiện và cung cấp tài chánh (Who); (4) khi nào thì mới có thể thực hiện và hoàn thành được (When); (5) công trình sẽ được thực hiện ở đâu (Where).
Một khi chuyện “5W” đã giải quyết rồi thì vấn đề còn lại là công trình sẽ được thực hiện như thế nào để thể hiện được cả 3 mặt nghệ thuật, lịch sử và đại chúng.
Truyền thống Huế là nghèo mà sang, không phải “sang” theo lối kiêu kỳ, hợm hĩnh của “trưởng giả học làm sang” mà chỉ là những nét đơn sơ và đạm bạc trong tinh thần “áo rách khéo vá hơn lành vụng may” thôi! Bởi vậy, Huế sẽ không cưu mang nổi một công trình tượng đài nặng phần trình diễn về hình thức mà nội dung rỗng không và phi nghệ thuật.
Tượng đài thường xuất hiện dưới 3 hình thức phổ biến nhất, đó là: Hiện thực, hiện thực kết hợp với biểu tượng và thuần biểu tượng.
Thật không dễ dàng và đơn giản để chọn lựa một mô thức tượng đài Công Chúa Huyền Trân theo một trong ba dạng ấy.
Nếu theo dạng hiện thực thì nhân dáng của Huyền Trân sẽ như thế nào? Hình ảnh một nàng công chúa tuyệt trần được mô tả trong chuyện thần tiên chung chung chăng? Hay là một khuôn mặt đẹp có dáng vẻ mượt mà, thuần hậu, yêu kiều, đăm chiêu, trẻ trung, cương nghị, lắng đọng, sâu thẳm... của một David mà chỉ có thiên tài Michelangelo mới mong thực hiện nổi? Nếu chọn theo dạng hiện thực kết hợp với biểu tượng đại khái như mái tóc là dòng sông Hương; khuôn mặt là hình ảnh cô gái Huế dịu dàng; gót chân là những đóa hải đường hàm tiếu hay mãn khai; tà áo là dáng mây bay qua núi Ngự... thì liệu có dễ dàng tìm ra một mảnh đất chung cho một khái niệm về biểu tượng hay không?
Nghệ thuật vẫn phong phú và bao la như bầu trời vô tận, nên không ai biết phải đi bao xa và tìm kiếm bao lâu mới tìm ra “bí quyết” để đạt đến vẻ đẹp toàn bích, chân và mỹ, của nghệ thuật. Những nghệ sĩ thiên tài dường như đều tìm thấy cái đẹpï ấy trong chính sự sâu thẳm của mình và trong thế giới riêng tư của mình để diễn đạt vẻ đẹp ấy bằng cảm quan nghệ thuật “tự tại” theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Biểu tượng chiến đấu trong thiên hùng sử “David chống Goliath” đã được Bernini dùng những đường nét của khuôn mặt mình để khắc họa nên tác phẩm tượng đài bất hủ này khi nhà nghệ sĩ điêu khắc tài danh nầy mới 21 tuổi. Michelangelo cũng phản ánh hình tượng của chính mình để khắc tượng David. Và Frederic Auguste Bartholdi, người Pháp, cũng đã dùng khuôn mặt của mẹ mình để dựng nên tượng Nữ Thần Tựï Do ở Mỹ. Ước mong sao nguồn suối nghệ thuật để khắc họa một chân dung tượng đà Công Chúa Huyền Trân là những chất liệu đang tiềm tàng trong lòng đất quê hương.
Nếu cuộc đời vẫn “suông sẻ” thì thế hệ Chiến Tranh Việt Nam của chúng ta cũng chỉ còn đủ sức kiên gan đợi chờ tối đa là vài ba chục năm nữa rồi sẽ rủ nhau về đất. Chúng ta có được dịp say sưa đứng ngắm một tượng đài Huyền Trân Công Chúa ở Huế hay không là tùy thuộc vào khả năng vận động và kết hợp trong bước khởi đầu đầy khó khăn và trở ngại ngày hôm nay. Ngày xưa, nước non nghìn dặm vẫn không làm chùn bước chân son lịch sử của nàng công chúa họ Trần bẻ quế lên đường. Một ngày đang đến là một ngày đang qua, nước non trước mặt, đâu còn truông sâu vàsóng dữ để chúng ta phân vân thấp thỏm đợi chờ một ngày mai lập lại ngày hôm nay.
Rồi ba trăm năm sau – Tam bách dư niên hậu – thời gian mà thi sĩ Nguyễn Du nghĩ rằng đủ dài để nhớ hay quên thì những tóc xanh tóc trắng, yêu thương mơ mộng, mùa Thu và lá vàng… đang bay ngoài cửa sổ hôm nay sẽ còn chi lưu dấu hay còn chăng “một nấm cổ khâu xanh rì”! Những người qua Huế có chăng một chuyến dừng chân lại một nơi nào đó ở Huế ngắm nhìn bức tượng Huyền Trân rêu phong đã ba thế kỷ. Hay vẫn còn nghe vọng âm tiếng chuông lạnh cả hư không từ phía đồi xa mà bâng khuâng tự hỏi rằng: “ Một nghìn năm qua rồi mà Huyền Trân còn ai quên, ai nhớ?!”
Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4
HÀNH VI VỢ CHỒNG
QUA GÓC NHÌN TÂM LÝ TRỊ LIỆU
Một ngày đầu Xuân Kỷ Sửu 2009, kẻ viết những dòng nầy bỗng nhận được một điện thư cần "cứu viện" của bạn Phương Tôn trong ban Chủ biên của tờ báo điện tử khoa học được nhiều độc giả ưa thích: Trang "www.khoahoc.net". Mục đích cầu viện là để trả lời cho một vấn nạn khá tế nhị của một nữ độc giả – có lẽ thuộc thế hệ đàn em Obama vì xưng "con" ngọt xớt trong thư – rằng là: "Xin thắc mắc: 'Hành vi vợ chồng' trên phương diện khoa học...". Ông bầu nhớn trong ban biên tập khoahoc.net, mặc dầu có đủ bốn bồ chữ của thiên hạ, vẫn khéo léo đỡ nhẹ bóng và chuyền lẹ về phía các cầu thủ trung phong và hậu vệ phía khung thành sân nhà của mình như Dr. Nguyễn Ý Đức, Dr. Hồ Đắc Duy... ngay. Thư rằng: "Xin bà con mình ai biết thì trả lời giúp cho... Riêng em là con trai mới lớn, nghe mấy chuyện này em mắc cở lắm nên không dám bàn thêm vào." Ở đời thấy việc phải không làm là chưa phải; thấy sân bóng nhà mình đang sôi động mà không xắn tay áo vào chơi cho vui là chưa vui!
Dẫu không hề có chút xíu khí phách hào sảng nào của dòng máu Lục Vân Tiên "qua đường thấy việc bất bằng chẳng tha" cả, nhưng kẻ đang viết những dòng này vừa ham vui để đỡ bóng cứu viện cho bạn, vừa đã từng hành nghề và dạy học trong ngành Tâm Lý Trị Liệu (Psychotherapy) ở Mỹ, có dịp tiếp cận với Mỹ đen, Mỹ trắng, Mỹ vàng, Mỹ nâu, Mỹ pha pha, làng nhàng... đủ thứ nên cũng có đôi điều để nói. Đầu Xuân mới, gặp ngày hạ nêu, nhâm nhi vài lát mứt gừng Huế và chén trà Bắc Thái để lạm bàn chuyện... tầm phào mắc cở phòng the cho vui cửa vui nhà thì cũng là điều tân niên đại cát vậy.
Người viết xin nhấn mạnh cụm từ "lạm bàn chuyện..." là vì khái niệm sinh lý, tình dục hay nhu cầu giới tính chẳng có gì mới mẻ. Sinh vật địa cầu và có thể chúng sinh trong ba nghìn thế giới đã sống, thực hành và ghi dấu dưới vô số hình thức. Đấy là một khuynh hướng thể lý phát triển tự nhiên để sinh sản và truyền giống. Nó vừa là lực đẩy mà cũng vừa là lực hút hiện hữu thường xuyên, tồn tại trong thế giới vật lý, ngay trước khi có con người sinh ra trên hành tinh nầy. Nó xưa cũ nhất nhưng cũng mới mẻ và hứa hẹn nhiều hình thái biến ảo ly kỳ nhất trong toàn vũ trụ. Lực hấp dẫn còn có "E=MC²" chứ tình cảm và sinh lý thì chẳng có công thức hay quy ước nào cả. Thế nhưng, có thể nói rằng, hoạt động sinh dục là điều kiện tất yếu để cho thế giới sinh vật sinh ra, tồn tại và phát triển.
Trước khi tôn giáo và quy ước xã hội con người ra đời hay tận diệt, sinh lý vạn vật hay tình dục của con người đã hiện hữu từ thời "mô-tê-răng-rứa"; nghĩa là từ vô thủy đến vô chung! Cho nên, mong nàng độc giả và bạn Phương Tôn trẻ tuổi hãy anh dũng tiến lên – liều mình một phen không sao cả – bàn chuyện vợ chồng với "một nửa bên kia" của mình mà không có gì đáng lấy làm mắc cở.
Những hình thức tôn giáo nguyên thủy của con người cổ sơ là bái vật giáo. Trong đó sự tôn vinh và thờ phụng hình tượng các bộ phận sinh dục; sự chiêm bái các vị thần, thánh ái tình đã ghi dấu trong nhiều nền văn hóa; lưu lại trong các tranh ảnh, tượng đài và di chỉ. Ngay châu Âu là chiếc nôi văn hóa phương Tây từ thời Trung Cổ, hầu hết các tượng đài có giá trị nghệ thuật cao nhất phần lớn những hình tượng lỏa thể. Phương tiện của giới tính cũng như tình yêu đích thực, không mang một ý nghĩa tiêu cực, xấu xa, tội lỗi nào cả. Chính con người mới là thủ phạm của sự lạm dụng các phương tiện ấy mà thôi. Cái gọi là tri thức, là suy diễn, là liên tưởng đã làm cho Adam và Eva phạm tội. Mãi đến đầu thế kỷ 20 về sau, những nhà phân tâm học phương Tây tiếng tăm lừng lẫy như Sigmund Freud, Carl Jung, Erik Erickson, Erich Fromm... mới táo bạo mang những luận điểm tâm lý, sinh học và y học để phân tích những vấn đề tình dục. Và, tiếp theo là hiện tượng "cuộc cách mạng tình dục" vào thập niên 1960 tại Mỹ và các nước Âu Tây đã cung cấp những vũ khí sắc nhọn để tạo nên những cuộc giao tranh ác liệt giữa đạo lý, tình yêu và tình dục cho đến ngày nay.
Lý thuyết về sự tương tác táo bạo, mãnh liệt, phong phú nhưng cũng rối ren như mớ bòng bong giữa tình yêu, sinh lý và tình dục có thể nói là bộ sách dày cộm nhất trong kho tàng kiến thức của nhân loại. Bởi thế, người viết những dòng nầy đã uống gần hết mấy bình trà Xuân rồi mà vẫn cứ say sưa lừa bóng của Phương Tôn vừa "pass" qua để chạy lan man ngoài khung thành, e rằng sẽ bị khán giả sân nhà ở chốn cầu trường la ó vì bệnh... câu giờ.
Vậy thì xin vào ngay trọng tâm của câu hỏi bạn nhé!
Trọng tâm của câu hỏi là "hành vi vợ chồng". Xin tạm dùng lửa đun trà để xào vài câu thơ cũ của Billy Ryes, những mong hâm nóng tinh thần chiến sĩ trước đã:
Đời sống vợ chồng có muôn màu
Tình yêu có vô số sắc
Ta và em nhìn nhau trong mắt
Sẽ thấy màu tình dục giữa tình yêu
(Live husband and wife want to have color
Love with the numerous
You and I look in the eyes
Will see the color of sexual love)Phải chăng "màu tình dục giữa tình yêu" là "hành vi vợ chồng" mà người đọc trẻ tuổi muốn nói đến?
Tình dục tự nó là một trong nhiều nét tự nhiên phải có của đời sống vợ chồng. Bùn có thể trồng sen mà cũng có thể vấy bẩn. Tương tự như vậy, tình dục có thể là ánh sáng hay bóng tối; thánh thiện hay tội lỗi; đẹp hay xấu; hoặc chẳng mang ý nghĩa gì cả trong quan hệ vợ chồng hay giới tính. Hình ảnh hay ý nghĩa của nó xuất hiện tùy theo tác động và sự diễn giải hai chiều qua lại của cặp vợ chồng trong cuộc.
Nếp sinh hoạt phòng the cũng chiếm chỗ rất quan trọng trong đời sống hôn nhân. Trong mấy dự án thăm dò của Leigh, 1989; Quadagno & Sprague, 1991 thực hiện với các cặp vợ chồng trên 3 cấp độ tuổi (thanh niên, trung niên và lão niên) về vai trò tình dục trong quan hệ vợ chồng như thế nào thì kết quả ghi nhận được tóm tắt như sau: Ngoài vấn đề sinh hoạt thường nhật như việc làm, ăn uống, ngủ ngáy, giải trí thì mối quan tâm đến tình dục gồm ý nghĩ và sự giao tiếp "hành vi vợ chồng" chiếm đến 60% thời gian còn lại đối với tuổi trẻ, 30% đối với tuổi trung niên và 10% đối với tuổi lão niên. Trong đó, trung bình có 85% người vợ trả lời là họ chỉ có thể có quan hệ tình dục khi có tình yêu; chỉ có 12% người chồng trả lời là họ cần phải có tình yêu đi kèm với tình dục. Dẫu tin hay không tin trò chơi thăm dò ý kiến kiểu Mỹ chăng nữa thì người ta vẫn không phủ nhận được thực trạng... xót xa rằng, càng già, càng bở, càng khô! Nghĩa là càng nghèo tình cảm lãng mạn và càng ít ham vui (?!). Và, đàn ông thường tỏ ra ít nhạy cảm hơn đàn bà trong chuyện gối chăn; ham ăn nhiều hơn là ăn ngon, bởi vậy mau đói nên phải... ăn vụng!
Suốt 18 năm làm trong ngành Bảo Vệ Thanh Thiếu Niên (CPS) và Tham Vấn Gia Đình (Family Counseling) tại California, người viết bài nầy đã nhiều lần bị "sốc" vì có nhiều bà vợ gọi cảnh sát, kiện chồng mình là đã "hãm hiếp" vợ. Lý do đơn giản là vì người chồng áp đặt vợ mình phải chấp nhận chuyện chăn gối trong khi người vợ chưa chuẩn bị tâm lý sẵn sàng trong cảnh "lợn kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem!" Nói một cách nôm na thì đó cũng là một hình thức... ăn vụng cơm nhà.
Những cặp vợ chồng phương Tây xem chuyện gối chăn là một sinh hoạt rất quan trọng trong đời sống vợ chồng. Phần lớn những cặp vợ chồng từ hàng trung lưu trở lên xem tình dục trong đời sống vợ chồng là một nghệ thuật sống. Bởi nó đòi hỏi một sự nuôi dưỡng và sáng tạo thường xuyên trong thế giới phòng the. Đây là một sinh hoạt có tác động và tác dụng song phương. Trong đó, cả người nam lẫn người nữ phải cùng ở trong tư thế sẵn sàng như hai cầu thủ sắp ra sân. Đường bóng sẽ trở thành nhạt nhẽo và đơn điệu nếu hai cầu thủ không cân sức hay một trong hai thiếu sự chuẩn bị tâm lý háo hức, khi nhập cuộc sẽ trở thành miễn cưỡng trong một tư thế đơn phương là bên này xuôi tay cho bên kia áp đảo hay ngược lại. Và, dẫu cho hai cầu thủ đều có chung tần số trên sân cỏ chăng nữa mà nghệ thuật nhồi bóng cứ kéo dài "trước sao sau vậy" hoài hoài – cở chục, mươi lăm năm chẳng hạn – thì dần dà sự lập đi lập lại sẽ trở thành cảnh bò già gặm cỏ cháy. Khi đó, cầu trường chỉ còn là sân đá bóng chứ không còn là nơi trổ tài đấu bóng. Tuy cầu thủ có thể vẫn đang còn sung sức; nhưng giày vệt gót, áo sờn vai thì chân giày cũng dễ trở thành mỏi nản.
Chuyện phòng the ở phương Đông là chuyện đáng... mắc cở. Có khi ngay trong quan hệ vợ chồng mà một trong hai hay cả hai người phối ngẫu vẫn sợ "hở môi răng lạnh". Họ không hề lên tiếng hay chia sẻ cảm tưởng và kinh nghiệm gối chăn để cải thiện những gì đang vướng mắc. Phát khởi từ những bức xúc sinh lý lâu ngày không giải tỏa, rất nhiều cặp vợ chồng người Việt – già có, trẻ có, sồn sồn cũng có – đã để gây ra những tác động tâm lý và tinh thần mất quân bình, đưa đến những hậu quả nghiêm trọng đáng tiếc và có khi đã quá muộn màng như: Ly dị, ly thân, thay đổi tính tình, trầm cảm, thô cứng, hành hạ con cái, hung hãn với người khác và có khi điên loạn. Trong cả nghìn hồ sơ về trường hợp hành hạ trẻ con (child abuse) và gia đình bất ổn (dysfunctional family) mà người viết bài nầy đã được phân công thụ lý và giải quyết suốt 18 năm qua (cứ trung bình 12 hồ sơ mỗi tháng) thì vai trò và tác động của vấn đề sinh lý trên điệu sống của các cặp vợ chồng đôi khi mang tính quyết định cho sự sống còn của "liên minh" chồng vợ.
Nhìn từ góc độ chuyên biệt của ngành tâm lý trị liệu thì tuyệt nhiên không có một nguyên nhân hay hậu quả nào đứng độc lâp riêng biệt. Tất cả là một quá trình của nhiều sự việt tác động lên nhau và làm thay đổi mọi vật thường xuyên trong từng giây, từng phút – một hình thái duyên hợp như trong Phật giáo chăng? Các trạng thái tâm lý hình thành do tác động trực tiếp, gián tiếp và sâu xa của vai trò tình dục trên tâm và tính của mỗi con người thật là quá ư phức tạp và phong phú. Khó mả kể hết mọi trường hợp cho dẫu phải dùng đến thiên kinh vạn quyển.
Sau đây, người viết chỉ xin đơn cử 3 "tình cảnh éo le" tiêu biểu nhất để minh họa cho những trạng thái tâm lý tiêu cực và phản ứng tai hại do tác động trực tiếp của vai trò tình dục thiếu cân bằng, nếu không muốn nói là khủng hoảng, giữa vợ và chồng. Hậu quả thường đưa đến sự tan vỡ đáng tiếc của nhiều gia đình. Và, cũng xin được pha một tí xíu hương liệu khôi hài để làm nhẹ bớt vẻ nghiêm trọng của sự đổ vỡ:
- Nửa đường gác kiếm (premature ejaculation). Có những cặp vợ chồng tự hào là đã yêu nhau như điểu đổ trước lúc thành hôn. Nhưng sau một thời gian chung sống, người vợ có đủ tam tòng tứ đức bỗng trở chứng thành "bất tòng thất đức". Cô nương thường xuyên nóng nảy, phản ứng thô thiển với chồng; coi đức lang quân oai phong hơn Từ Hải trước kia, nay thành một gã đàn ông tầm thường, yếu đuối bất lực... ngứa mắt trong nhà. Chàng vẫn vô tình, đêm đêm vi vu lên tới đỉnh Vu Sơn một mình; trong lúc nàng bị chọc giận còn kêu đòi khao khát dưới chân đèo nhưng lại không dám mở miệng nói điều bất mãn với chàng vì mắc cở chuyện phòng the! Mãi cho đến khi chuẩn bị kéo nhau vác chiếu ra tòa ly thân, ly dị mới hết mắc cở, cùng đi tìm gặp thầy thuốc tâm lý để khai bệnh và chẩn bệnh, mong tìm Huê Đà chữa cháy – có lẽ thời nay thì nên gặp Dr. Hồ Đắc Duy là tốt nhất – trị bệnh cho chàng khỏi bị "cúp điện trước bình minh”!
- Chăn gối muộn phiền (performance anxiety). Bà vợ tả oán trước, rằng là, bà là một người vợ hoàn toàn, một người tình tuyệt diệu đối với chồng. Này nhé... bà lo hết mọi việc nhà từ trong ra ngoài. Làm việc toàn thời gian, giúp con làm bài tập, nấu nướng, dọn dẹp nhà cửa, chiều chuộng chồng vô điều kiện. Bất cứ lúc nào ông hô là bà "ứng" ngay. Sẵn sàng "cho" ông bất cứ khi nào ông muốn... Đến lượt ông chồng ngõ lời tri ân vợ, rằng là, mọi điều bà nói đều đúng cả. Chuyện chiều chồng không điều kiện trong việc chăn gối cũng chẳng sai. Có điều bà đã quá siêng năng, bê mọi công việc nhà nồi niêu soong chảo lên giường ngủ. Bà khoán trắng cho ông mở khóa động đào. Phó mặc tấm thân bồ liễu cho ông mặc sức vẫy vùng mây Tần, mưa Sở. Nhưng riêng bà thì vẫn cứ giang sơn một cõi. Khi ông chung gối với bà thì miệng bà vẫn không quên lẩm nhẩm tính tiền biêu (bill), tiền chợ. Đầu vẫn đầy ắp chuyện nhà chuyện sở. Có khi mắt bà dán vào TV rồi hỏi ông tỉnh queo: "xong chưa anh?!" giống như hỏi ông thợ lợp nhà đang leo trên mái...
Càng ngày ông càng thấy cô đơn, vô vị và tức tối trong việc chăn gối. Khi sự uẩn ức dồn nén tới đỉnh điểm thì đối tượng tình dục là người "vợ hiền" sẽ biến thành quỷ sứ trong tâm lý vô thức của ông chồng. Cuối cùng không còn chịu nổi sự nhạt nhẽo và trơ tráo của chuyện chăn gối một chiều đang trở nên một ám ảnh tâm sinh lý kinh hoàng, ông ôm gối qua ngủ riêng phòng khác.
Bà nghi ông có bồ tèo nên đã lạnh nhạt dần chuyện chăn gối với bà. Xung đột vợ chồng bắt đầu bùng nổ. Không ai nhường ai nửa bước vì mỗi bên đều chủ quan thấy bên kia không đủ điều kiện làm chồng, làm vợ. Người đàn bà quằn quại trong cơn ghen là kẻ đang phó thác lý trí và xúc cảm của mình vào tay ma quỷ. Người chồng chán vợ nhìn thấy vợ như phù thủy ác sát. Khi tình cảm biến thành cơn khủng hoảng tâm lý thì tinh thần hóa giải và lòng khoan nhượng sẽ chào thua. Những cuộc khẩu chiến càng lúc càng thường xuyên và ác liệt hơn nên cả hai đâm đơn ra toà ly dị, bỏ bê con cái. Lòng tự ái, tự kỷ, tự kiêu... đã khóa chặt họ trong bản ngã của chính mình mà không cần mở lòng chia sẻ và nghe nhau. Sigmund Freud đã phân tích rất sâu sắc về tác dụng ngầm nhưng đầy vũ bão và biến tướng duới muôn hình muôn vẻ của những luồng sóng tình dục chưa được giải tỏa trong tâm lý và tình cảm của con người.
Nếu trong tình yêu cần có hai người để nhìn một bầu trời đẹp thì trong tình chăn gối vợ chồng, cũng cần có sự tham gia đồng hành, đồng điệu và đồng cảm của cả vợ lẫn chồng.
- Bách niên giai... khổ lão (post-menopause). Một cuộc sống vợ chồng thường có 3 cơn khủng hoảng chính. Vượt được cả 3 đợt khủng hoảng này mới mong cầm tay nhau tiến về ngày bách niên giai lão; nếu cứ mãi gập ghềnh chưa vượt thì sẽ tới cảnh "bách niên giai khổ" là điều tự nhiên. Đấy là khủng hoảng thanh niên, khủng hoảng trung niên và khủng hoảng lão niên. Khủng hoảng lão niên điển hình xảy ra sau vài ba năm, kể từ khi cơ thể người phụ nữ chấm dứt hành kinh (menopause) bình quân vào lứa tuổi 50. Theo khoa sinh lý học (sexology) hiện đại thì một người đàn bà có hai thời kỳ tái sinh (rebirth), đó là tuổi dậy thì và tuổi chấm dứt kinh nguyệt. Bởi vậy, người đàn bà vào thời kỳ hậu mãn kinh (post-menopause) là một con người mới. Một trong những nét phổ biến nhất của mẩu "người mới" nầy là hiện tượng lắng dịu sự đòi hỏi hay nhu cầu tình dục do các tuyến hormone không còn sinh sản các chất kích thích tố estrogens và androgens nữa. Hoạt động não bộ vốn giữ một vai trò quan trọng trong hoạt động sinh lý cũng chịu nhiều tác động trực tiếp và gián tiếp của kích thích tố.
Trong thời kỳ các bà ở tình trạng công chúa ngủ quên thì các đức ông chồng vẫn phây phây làm hoàng tử phi ngựa truy phong. Sự thiếu đồng bộ của động cơ sinh lý đã tạo ra nhiều hoàn cảnh đóng băng tình cảm của... tuổi đá buồn và tuổi vàng. Dr. Triệu Phổ, một trong những bác sĩ riêng của Tưởng Giới Thạch phu nhân đã có một nhận xét trong tác phẩm Sổ Tay Y Giới xuất bản tại Taiwan năm 1979, đáng làm cho người ta suy nghĩ: "Phụ nữ Á Châu thế hệ tiền chiến phần đông là những người đàn bà gương mẫu, chịu khó hy sinh cho chồng nhưng lại có 3 điều tiêu cực tự gây khổ cho chính bản thân mình: (1) Không chịu chia sẻ chân thành những vấn đề bất bình thường liên quan chuyện phòng the riêng tư với chồng và thầy thuốc trước khi quá muộn. (2) Bảo thủ và cứng đầu trong việc cải thiện sinh lý và ngừa thai. (3) Không dùng phương tiện y khoa hiện đại để bù đắp cho lượng kích thích tố đã mất trong thời kỳ hậu mãn kinh."
Có lẽ 3 điều "tiêu cực tự gây khổ" của phụ nữ Trung Hoa cổ điển cũng là của phụ nữ Việt Nam ta trong và ngoài nước đang lên hàng bà nội, bà ngoại. So với những phụ nữ phương Tây tuổi lục tuần còn mặt hoa da phấn, lái xe uốn lượn, mắt mũi còn lấp lánh kiếm quang thì các "bà cụ nhớn" cùng lứa tuổi của dân ta đã ung dung lên lão làm lục tuần thượng thọ cho con cháu chúc thọ vái lạy tưng bừng!
Sự phiền não tăng dần khi quý bà "lên lão" càng ngày càng... khô khan, an phận nhưng ngược lại, các đức ông chồng suýt soát cùng tuổi vẫn chưa an thân "xuống lão". Có lẽ phải cần đến một pho truyện dài cở Lý Trần Tình Hận của Ngô Viết Trọng mới nói hết nỗi lòng của quý cụ ông than thở về cuộc sống "tiếng có miếng không" bên cạnh những đóa hoa nylon biết nói.
Trong các cuộc nghiên cứu về quý "lão bà" trong thời hậu mãn kinh nhan đề là Postmenopausal Women của Masters & Johnson 1966 và môn đệ 1996 thì những đóa hoa nylon biết nói kia cũng rất dễ dàng trở lại cõi đời thường nếu biết ứng dụng luật bù trừ để đền bù cho những gì đã mất. Hầu hết các nàng nylon biết nói sắp kề cận với cõi "vô nhiễm" Eva, nếu biết dùng những phương pháp Trị Liệu Bổ Sung Kích Thích Tố (Estrogens-Replacement Therapy: ERT) đều đã trở lại trạng thái sinh lý bình thường của thuở xuân xanh trên cõi trần gian gió bụi nầy.
Đàn bà xứ ta, toàn là con cháu bà Trưng bà Triệu; tuy thông minh, can trường và chiến thắng phe đàn ông, nhưng đã có được mấy người chịu thử áp dụng những phương pháp cải lão hoàn Xuân như thế nhỉ?!
Nói gút lại là như thế nầy: Dẫu vợ chồng là một sự kết hợp tình cờ hay "thiên duyên tiền định" thì vẫn là một sự hội tụ đẹp đẽ và tuyệt vời nhất trên hành tinh nầy. Nhưng trong hạnh phúc đã có mầm thương đau và ngược lại. Mỗi người chỉ có một cuộc đời để sống. Và, sống là một sự chọn lựa. Chẳng có sự lựa chọn nào mà không có riêng nỗi hoan lạc và xót xa riêng của nó. Hành vi vợ chồng cũng là một quá trình tương tác và lựa chọn giữa hai người: Tình yêu và tình dục chẳng có tội tình gì hết. Nhưng trước khi chối từ hay loại bỏ nhau, chỉ mong sao những ông chồng và những bà vợ hãy thẳng thắn chia sẻ, nói hết cho nhau nghe chuyện tình thầm kín của hai kẻ đã từng có thuở đôi mặt một lời.
Trần Kiêm Đoàn
Elk Grove mùa Valentine 2009
Normal 0 false false false VI X-NONE X-NONE MicrosoftInternetExplorer4