ĐIỂM SÁCH: TRÀ THIẾU PHỤ, TẬP TRUYỆN NGẮN CỦA HỒNG NHU
- Details
- Published Date
- Written by Võ Quê
- Hits: 5771
Tập truyện ngắn "Trà Thiếu Phụ" là công trình văn học thứ 15 của nhà văn Hồng NHu được Nhà xuất bản Hội Nhà Văn Việt Nam ấn hành nhân dịp nhà văn Hồng Nhu tròn 70 tuổi. Những người yêu mến thơ văn Hồng Nhu đều có chung một nhận xét là càng lớn tuổi sức sáng tạo của ông càng sung mãn. Lặng lẽ, âm thầm ông một mình lao động miệt mài trên cánh đồng văn. Những năm gần đây các đầu sách đã được xuất bản và một số tác phẩm của Hồng Nhu đã đạt giải thưởng cao ở địa phương và trung ương đánh dấu những thành tựu nổi trội trong sự nghiệp văn chương của ông.
Tập "Trà Thiếu Phụ" gồm 9 truyện ngắn: Bao Nhiêu Là Cát, Trà Thiếu Phụ, Giếng Làng, Lên Rừng Xuống Biển, Đêm hạ Huyền Yên Tỉnh, Mùa Cau Ấp Bẹ, Cổ Tích Làng, Nhà, Chuyện Một Tình Yêu. Mỗi truyện đều lan tỏa một tình yêu quê nhà sâu thẳm, giàu tính nhân văn. Dường như những năm tháng xa xưa ở làng quê yêu dấu đã tạo nên một vốn sống dạt dào trong ông để từ đó thiên nhiên, cảnh quan, cuộc sống, nhân vật trong các truyện ngắn của ông trở nên sinh động, có hồn, tạo nên những xúc động thật, những nỗi cảm hoài thuần khiết, những hy vọng về đời trong lòng người đọc.
Các truyện ngắn trong "Trà Thiếu Phụ" cho chúng ta cảm giác tác giả đã xây dựng, bố cục và viết một cách hồn hậu, giản đơn. Nhưng càng đọc, chúng ta càng thấy nội dung mỗi tác phẩm đều có một chiều sâu của truyện: tỏa lên sự nhân ái, sức sống đẹp của các nhân vật dành cho đời, cho người; sự tìm về nguồn cội; sự trân trọn những giá trị văn hóa mang tinh thần truyền thống của chân thiện mỹ...Phải chăng đó là nhờ bút pháp tinh tế, giàu chất thơ của một người đã có một quá trình sống, sáng tạo, đam mê với nghề văn.
Qua "Trà Thiếu Phụ", người đọc còn cảm nhận một điều ở nhà văn Hồng Nhu là ông đã thấm đượm hồn dân giả, mạch nguồn hương đồng gió nội, sụ hòa nhập tâm cảm giữa đời với thiên nhiên, tinh chất folklore đan quyện trong từng cấu trúc, trong từng con chữ.
Xin chúc mừng nhà văn Hồng Nhu đã có một tác phẩm văn học để đời khi bước vào ngưỡng cửa "thất thập cổ lai hy".
Truyện ngắn HỒNG NHU
TRÀ THIẾU PHỤ
Rét lập đông năm nay ập đến bất ngờ và có phần như khao khát. Sau đợt mưa hơi dai cuối mùa tháng chín, thời tiết trở lại khô ráo, những đám mây dày nặng còn sót lại của một tuần âm u vừa qua nhanh chóng bị dát mỏng ra, tản mát, bay lang thang trên bầu thời tuồng như vừa được đẩy cao lên một tầm, mới lạ và hàm chứa. Cùng với làn nắng rụt rè tỏa xuống là không khí ấm áp hơi quá mức bình thường của một ngày đầu mùa lan ra không thể nói là chậm chạp dần dà. Chốc sau, nắng tắt đột ngột. Ngước nhìn lên, đã thấy không gian như vừa được phết lên một lớp sơn màu ghi sáng mỏng, hơi ấm lúc nãy vừa phả biến mất, thay vào đó là cái lạnh se bất chợt làm cho người ta thoắt rùng mình... Thuận khép lại tà áo gió khoác ngoài, bước chậm hơn, vừa đi vừa suy nghĩ vẩn vơ. Ngọn đồi nửa bên này phẳng lì trơ trụi, nửa bên kia vun lên rậm rạp, van vát như một quả bưởi ai cừa cắt chéo, mang một dáng vẻ vừa giấu giếm vừa phơi bày làm cho lòng Thuận bỗng dội lên một niềm nho nhỏ, xôn xao mà không biết là niềm gì, vui hay buồn, từ đâu đến. Chị mỉm cười, lắc lắc mái tóc, cảm thấy mình lạ lùng khó hiểu như không phải là chính mình vậy. Đường lên mặt vát bên này để vòng sang mặt tròn bên kia xuống lưng chừng đồi, nơi từ đó có thể thấy dưới xa con sông lượn một vòng cung hơi điệu đàng một chút, là ngôi nhà cha con ông lão Kiệm, người trông coi nương chè của xã. Bà con xóm đồi gọi ông Kiệm thế, nhưng thực ra ông mới ngoài năm mươi, chưa đến cái tuổi lên lão, chẳng qua gọi theo thói quen và một phần vì ngoại hình của ông mà thôi. Ông tầm thước, lưng rùa, bộ râu quai nón không được chăm sóc kỹ lưỡng luôn rậm rì, âm u trên khuôn mặt chữ khẩu, ẩn một nét giang hồ lang bạt. Vậy mà trên khuôn mặt đó, một đôi mắt dài màu chì khá thanh tú, long lanh với cái nhìn không chớp chỉ có thể có được ở người chưa mấy từng trải, thì rõ là mắt của một anh học trò! Đôi mắt được gắn vào khuôn mặt như một sự bày đặt cố ý, lại như một sự ngẫu hứng thâm trầm - Thuận nghĩ bụng. Chẳng biết ông Kiệm đến vùng đồi này từ bao giờ, có lẽ đã lâu lắm, khi mẹ con Thuận về đây thì bà con trong thôn xã đã coi ông như là dân gốc. Bấy giờ chồng Thuận vừa hy sinh ở mặt trận, giấy báo gửi về mãi sáu tháng sau mới đến địa phương, phong bì và giấy đánh máy bên trong đã nhàu nhĩ vì bom đạn, vì mưa gió đường trường. Đang thời kỳ chiến tranh ác liệt, những nỗi đau mất mát như của chị không hiếm nơi hậu phương. Vì vậy, nó buộc chị phải tìm đủ mọi cách để mau chóng khuây khỏa, nguôi ngoai. Trước mắt chị là đứa con nhỏ đang cần chị nâng niu bù đắp cho nó cả tình mẹ lẫn lòng người cha, thứ nữa là công việc ở nhà trường, là các em học sinh của chị. Thuận tự nguyện lên vùng đồng rừng nhân lúc ngành giáo dục vận động các thầy giáo cô giáo từ miền xuôi lên miền ngược. Đó là một ngày sắp mãn tiết thu phân một năm sau khi người chồng Thuận mất, cũng là năm đất nước được hoàn toàn giải phóng. Chị còn nhớ như in những ngày đầu đặt chân tới ngôi trường mới. Trong số người xã cử tới sửa sang lại gian phòng trường phân cho chị trong ngôi nhà tập thể của giáo viên lợp bằng lá cọ ở xế sân sau trường, có hai cha con ông lão Kiệm. Họ dựng thêm cho mẹ con chị một cái chái bếp. Trái với người cha, ông lão càng xởi lởi vui chuyện bao nhiêu thì anh con trai, mới chỉ là cậu bé mười tám mười chín mà đã như ông cụ, mặt mày nghiêm trang, cứ lầm lì lụi hụi làm cùng cha, cạy răng không nói một lời. Cũng nhờ buổi đó mà Thuận biết được đôi điều về cuộc đời ông Kiệm do chính ông kể lại. Ông người miệt dưới, phía biển, thuở nhỏ được ăn học đàng hoàng, đậu bằng "pri-me", lớn lên, suốt thời trai trẻ theo thuyền đi buôn bán xa, Quảng Ninh, Móng Cái, Hội An rồi Hải Phòng, Đồng Nai, Bà Rịa, từng đặt chân đến tận Hàng Châu Trung Quốc... ăn cơm thiên hạ đã mòn răng. Ông chặc lưỡi vẻ khâm phục : - Đất Hàng Châu là đất gấm vóc lừng danh, mà chè nước tẩm sao cũng nổi tiếng, cô giáo à! - Vâng... cháu cũng có nghe nói! - Nói chuyện này cô giáo đừng cười. Một hôm ra phố Hàng Châu, tôi bị hút hồn bởi một cô bán lụa đấy! Thế là có bao nhiêu tiền mang theo tôi mua sạch, vét gần hết quầy của cô ta. Nói bao nhiêu mua bấy nhiêu, chẳng mặc cả mặc con gì sất. Các quầy khác cứ trố mắt ra nhìn, vừa lạ vừa ghen! - ông lão phá ra cười ha hả. - ¤i bác! Cô ta nói gì với bác mà bác mê say đến thế? - Thuận vui lây với mẩu hồi ức hồn nhiên của ông Kiệm, mỉm cười hỏi, nghĩ thầm: "Bố già lãng mạn thật, đa tình gớm!". - Thế đấy, cô giáo à! Bấy giờ tôi còn trẻ mà, phong độ và đẹp trai nữa, chẳng có vẻ gì là dân buôn cả, cứ như là một nhà báo, một công chức vậy... ờ... ờ cô ta nói gì với tôi à? Ngôn ngữ bất đồng làm sao tôi hiểu được. Cô ta mặc một chiếc áo dài Thượng Hải, hai cánh tay trần mềm như hai cánh chim đưa lên đưa xuống đưa qua đưa lại, đo lụa cho tôi. Chỉ thế thôi mà tôi thấy như tắc thở đấy! Thuận giật mình. Không ngờ ông già bề ngoài có vẻ khô cứng thô ráp như một gốc cây lại có một nội tâm mềm mại, hơi "ướt át" như thế. Chị bỗng thấy băn khoăn day dứt một cách vô cớ, định gợi chuyện ông điều gì đấy nhưng kiềm chế được, lại thôi. Anh con trai ngồi trên mái bếp đón tấm tranh ông bố đưa lên từ ngọn sào xóc vào, tay xoắn múi lạt một cách giận dữ bật ra : - Nói cái gì không nói, lại nói ba cái chuyện "loăng quăng"! Bố già rồi, không biết ư? Không sợ người ta cười cho là vô duyên ư? Thuận ngạc nhiên nhìn cậu con, lại nhìn ông bố, đợi một lời vặc mắng lại của ông. Nhưng không, hai người chẳng nói gì thêm cả, cứ như vừa rồi không có gì xảy ra. Ông bố nhìn vào mắt cậu con một lúc khá lâu làm cậu con cụp mặt xuống, rồi quay đi như thể để giấu tình cảm hoặc nối tiếp sự suy đoán mơ hồ của mình vừa trỗi dậy, gật gật đầụ.. Thuận chẳng còn hiểu ra sao nữa. "Người ta" cậu bé nói đây là ai chứ? Chỉ mọi người xung quanh hay chỉ riêng chị? Nếu thế thì cậu bé nhầm to rồi. Còn trẻ con có khác. Cậu ta tưởng bố "tán" Thuận, hay đặt bố cũng chỉ cùng một trang lứa với chị? Chao ôi, mình già đến thế rồi sao!... Chút se buồn về mình của Thuận thoắt tan đi vì thái độ lạ lùng của ông Kiệm. Tại sao ông lão lại có vẻ chịu đựng trước lời đốp chát có thể gọi là vô lễ hỗn hào của anh con trai như thế? Cái gật gật đầu - Thuận nhìn từ phía sau lưng còn thấy vai ông rung rung như đang cố ghìm một tiếng cười nữa, là saỏ Biểu hiện điều gì? Rồi cái nhìn của ông, nó là sự chê trách hay cảm thông đối với nỗi lòng của người con mà với mẫn cảm của bậc cha mẹ, ông thấy nó đã khôn lớn thực sự, đã hiểu sâu xa về quãng đời trước đây của bố mẹ? Và nếu như thế thì câu đốp chát vừa rồi của anh con trai với bố phải được hiểu một cách ngược lai.!... Lâu về sau này Thuận mới hiểu thêm qua bà con xóm đồi và con gái út ông Kiệm. Mai lại là học sinh của cô năm cuối cấp, lớp do cô làm chủ nhiệm. Mai đã tâm sự với cô giáo những gì em biết về gia đình em. Bây giờ Mai đã là sinh viên trường đại học sư phạm dưới thành phố tỉnh lỵ; em ở nội trú, hàng tuần chủ nhật mới về nhà. Mười mấy năm về trước, khi Mai mới ba bốn tuổi gì đó, bố mẹ em đã chia tay nhaụ Họ thu xếp việc sống mỗi người một cuộc đời riêng êm thấm, lặng lẽ, nhanh chóng, kỳ lạ đến nỗi hai bên gia đình nội ngoại và bà con xóm giềng cứ tưởng chuyện đùa. Có lẽ họ không còn ở vào lứa tuổi xốp nổi, đã quá từng trải nên họ đủ sức, có khả năng biến những chuyện ồn ào ghê gớm thành chuyện đơn giản bình thường. Sau một chuyến đi xa dài ngày về, chiều hôm đó Kiệm nói với vợ: - Mình à, chuyến này tôi không ở nhà được lâu, có chuyện làm ăn mới bàn bạc với mình. Gói cà phê tôi mang về đấy, mình pha đi; đêm nay vợ chồng mình uống chút cho tỉnh táo. Người vợ nhìn chồng: - Có gì mà vội, mình! Mới đi về vệt, mình nên nghỉ sớm cho khỏe. Chuyện làm ăn lâu dài cả đời, vội gì! - Gấp thật mà! Vợ chồng mình phải thuận tình đêm nay. Mai sớm còn chạy thêm vốn liếng, hàng hóa, vật dụng... nhiều thứ nhiêu khê đấy! Người vợ mở ngăn kéo bàn lục tìm chiếc phin, bình thản: - Vậy à. Thế thì cùng thức. Em cũng đang muốn nói với mình một chuyện! - Chuyện gì? - Chuyện đời muôn thuở ấy mà! Các cụ ngày xưa có nói: "Dữ dội, đột ngột có thể rước về; nhẹ nhàng, an nhiên cũng có thể đem lại". Mọi sự đều do ta, mình ạ! Nghe vợ nói lời là lạ, người chồng sửng sốt lặng im. Hai ngày hai đêm liền, họ gần như chỉ ở trong buồng, rủ rỉ thầm thì với nhau không lúc nào ngơi, không hề to tiếng, mấy đứa con chẳng nghe ngóng được gì. Đến ngày thứ ba, người vợ soạn một bữa ăn có những món chưa bao giờ cả nhà được nếm, dọn ra. Gia đình xúm quanh, vui vẻ ồn ã như một bữa tiệc liên hoan, nửa chiều mới tan. Và đến lúc ấy, mấy đứa con mới biết cha mẹ mình đã quyết định ly hôn! Còn nhỏ, chúng chưa biết thế là hay hay dở, là nên hay không nên, là vui hay là buồn. Chúng chỉ biết theo bố đứa trai đầu và đứa gái út, còn theo mẹ, đứa gái giữa. Gia đình chia đôi từ phút ấy. Đó là một buổi chiều nắng rất đẹp, mùa hè mà cứ vàng mơ như đang thụ Người vợ về nhà ngoại. Người chồng ở lại, để rồi cũng ra đi sau đó mấy tháng. Vợ chồng lặng lẽ ôm nhau lần cuối, gọi nhau bằng "anh, em" - điều mà họ chưa bao giờ làm trước mặt mọi người và con cái họ... Hai tháng sau, tòa xử, chấp nhận sự lựa chọn của họ sau nhiều lần giải hòa không có kết quả. Bà chánh án đã có mười lăm năm trong nghề, lần đầu tiên xử một vụ ly hôn mà cả hai bên đều nói tốt về nhau, không hề có một lời tố cáo nhau, thậm chí một lời mỉa mai, cạnh khóe... cũng không nốt. Bà chánh án dày dạn kinh nghiệm, biết không thể nào hàn gắn được nữa; vả có gì mà phải hàn gắn, họ có đổ vỡ đâu, họ từ cuộc sống này chuyển sang cuộc sống khác đấy thôi!... Cũng mãi về sau, trong một lần về thăm quê, Thuận tình cờ gặp bà chánh án no.. Tưởng ai xa lạ, hóa ra bà là dì họ của Thuận. Bà nói: - Họ quá tốt với nhau nên không thể sống chung với nhau! Nếu tiếp tục, họ sẽ không còn tốt với nhau được nữa, ngay cả tốt đối với chính bản thân họ, cháu à! Song chuyện gì cũng phải có cái cớ. Cháu biết không, đứa gái giữa không phải con ruột của ông chồng; và đứa gái út cũng vậy, không phải con ruột của bà vợ! Thuận kêu: - Trời! Rắc rối éo le đến thế cơ à? - ừ, vậy mà họ xử sự cứ như không. Khi có bầu đứa gái giữa, ông chồng vừa đi xa về, bà vợ thú thật ngay. Sau đó, một lần ông chồng về, trên tay bế đứa gái út một tuổi rưỡi do một cô nhân tình nào đó ở nơi nào đó của ông ta trả, bà vợ rước đón ngay, chăm bẵm, ôm ấp, thương yêu như chính con mình rứt ruột đẻ ra... Thuận đã lên tới đỉnh đồi. Chị dừng lại phóng mắt về xa, nơi con sông lượn vòng một cách bí ẩn, đẹp mê hồn. Mới đó đã dăm năm kể từ ngày chị đến sống ở xóm đồi này. Luồng suy nghĩ đeo đuổi trong đầu chị vẫn chưa thôi, dù trước mắt chị cảnh trí tuyệt vời của những nương chè bậc thang chập chùng, xanh mởn, đang phô bày hết vẻ đẹp vừa rỡ ràng vừa u uyên của nó trong màn nắng nhẹ buổi sáng nhưng lúc nào cũng vương sương mòng của vùng đồng rừng. Chị đưa hai tay xoa má, chợt nhận ra rằng mình buồn cười thật, tại sao, vì lẽ gì mà mình quan tâm tìm hiểu về bố con ông Kiệm tỉ mỉ như thế chứ. Cái ông già - đâu đã già nhỉ? - Cũng hay, ruột để ngoài da như thế nhưng vẫn có một góc riêng trong đầu bất khả xâm phạm để lưu giữ những điều chỉ riêng mình biết. Còn cậu con trai, Toàn, ngậm hột thị, lúc nào mặt mày cũng nghiêm trọng, quy củ như đứng trước hàng quân, biết đâu lại là một anh chàng rộng mở, mới mẻ, phóng khoáng cũng nên! Giờ thì anh chàng đã trưởng thành, lái xe cho công ty chế biến chè xuất khẩu, sau khi đã đi bộ đội bốn năm về. Chả là anh ta hồi tại ngũ ở đơn vị thiết giáp bánh hơi, từng học lái thạo đủ các loại xe lớn nhỏ, khi ra quân mang theo bằng chứng nhận lái xe. Anh ta lại đang theo học lớp đại học tại chức, khá khen thật! Còn em gái anh ta cũng vừa tốt nghiệp, sắp nhận công tác, sắp trở nên đồng nghiệp của chị. Chỉ riêng ông Kiệm vẫn thế, thời gian phôi pha như trượt qua cuộc đời ông, chẳng để lại dấu vết gì. Nói như bà con xóm đồi vẫn nói, gà trống nuôi con được như ông không mấy ai theo nổi... Thuận đến nhà ông Kiệm vừa lúc ông ngoài nương chè về. Ông gỡ giỏ chè búp vừa hái trên vai xuống đặt ở góc hiên nhà. Cô giáo tương lai của gia đình hình như đã nấu nướng sửa soạn xong xuôi, đang ngồi nói chuyện ở gian bên với một người đàn ông đứng tuổi ăn mặc khá chải chuốt, áo vét "na-tô" mầu rêu đi giày mõm nhọn đen bóng lộn. Thấy cô giáo cũ hiện ở bậc thềm, Mai ào ra, tươi cười tíu tít: - Chào cô ạ! Em đợi cô nóng cả ruột, cứ sợ cô bận việc gì không đến được, em lo lo là... à, đây là anh Cường, trưởng phòng tổ chức trường em. Người khách đứng dậy chào, vẻ vừa tự nhiên vừa lúng túng, nhưng không quên đưa tay vuốt mái tóc dày đen rợp rất đẹp. Cử chỉ của anh ta làm Thuận chợt nghĩ: "Chắc gì mái tóc đó vốn đã như vậy lâu nay!" - Nghe tiếng chị đã lâu nhưng hôm nay tôi mới được gặp! chị Thuận người quê dưới tỉnh Đông à? Tôi cũng có một bà cô lấy chồng dưới mạn ấy đấy! - Vâng. Thế à? - Thuận trả lời. Ông Kiệm nhìn lướt bàn nước vẻ chưa ưng ý, quay lại mở tủ lấy ra một bộ ấm chén bằng đất nung, đặt vào bàn, mở lọ trà: - Chè Thái quê mình phải pha loại này mới đúng điệụ ¤i chà, cô giáo Thuận cả vùng này ai còn lạ, hôm nay bác Cường mới gặp ư? Ông rót trà ra chén. Dòng nước xanh mầu nõn chuối từ vòi ấm tong tong chảy ra, mùi thơm bốc lên, lừng mà dịụ Tinh tường một chút, có thể nghe có vị bùi bùi trong đó. - Mời cô giáo, mời bác. Vụ chè năm nay xem chừng khá hơn mấy vụ trước, cô Thuận ạ. Có điều mấy hôm rồi, lốm đốm thấy có rầy ở đôi khoảnh sát dưới bờ sông. - Thế bác đã báo cho bà con biết chưả - Đã. Bà con đang lo diệt ngoài ấy. Toàn về rồi hả con? Thôi, dọn mâm ra, Mai! - Vâng, con xong ngay đây. Toàn giẫm giẫm giày bộ đội vào hòn đá mặt phẳng trên sân cho mảng đất dính ở đế bong ra, vào nhà. Gặp ánh mắt Thuận, anh liền cụp cái nhìn xuống, ngượng nghịu, lảng đi chỗ khác, nhưng lời chào thì lại hơi bốc lên, quấn quýt: - Lúc nãy tôi đi ngang qua trường rẽ vào, định đón chị về cùng luôn nhưng xúi quẩy quá, chị đã đi rồi. Thuận cười, hơi ngạc nhiên trước vẻ bạo dạn của anh con trai: - Thế à, cám ơn anh. Xa xôi cách trở gì mà phải phiền anh đưa đón. Tôi đã hứa là tôi đến chứ. - Cháu bé đi đâu không thấy ở nhà, chị Thuận? - Cháu đi học tổ nhóm cùng bạn. Mới hồi nào, giờ cháu đã lên lớp năm rồi đấy! Anh Toàn thấy có nhanh không? - Vâng, nhanh thật! Thuận đưa tay đón mâm cơm Mai bưng ra khệ nệ: - Để cô giúp em! - Bày cả ra bàn cho rộng rãi thoải mãi, cô ạ! Ông Kiệm vỗ vỗ chai rượu cầm trên tay, trịnh trọng: - Hôm nay gia đình tôi vui lắm vì có cô giáo và bác Cường đến chơi, mừng cho hai đứa con tôi; một đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự về là có công ăn việc làm đàng hoàng, chóng vánh; một đã tốt nghiệp nay mai cũng được làm cô giáo. ước mơ của đời một người cha như tôi thế là toại nguyện. Thế này, người ta thì bia bọt, nhưng chúng ta "dân gian" một chút, làm chén "cuốc lủi". Mời cô giáo Thuận, mời bác Cường! Ngồi ăn, Thuận thấy trong lòng vui vui, một niềm vui là lạ, phấp phỏng. Bố già không ổn rồi, gọi ông trưởng phòng tổ chức bằng bác không sợ xúc phạm đến cô con gái rượu saỏ Hay ông biết chắc Mai chẳng có tình ý gì với anh tả Hoặc ngược lạỉ Còn Toàn, anh chàng nghĩ gì mà đã trở lại với vẻ mặt như sắp hô nghiêm, nghỉ thế? ưu tư à... Vì chuyện gì, vì aỉ... Bất giác hai má Thuận rần rần. Ngụm rượu ngon, êm ngọt, làm cho chị ngà ngà; chẳng hiểu giờ đây khuôn mặt mình ra sao, có biểu lộ điều gì để người khác đọc được hay không nữa! Chị ấp hai tay vào má, cảm nhận sự ấm nồng dịu nhẹ của rượu dường như giúp chị thanh thản hơn, vị tha hơn... Mai tiễn Cường ra cổng. Người đàn ông đứng tuổi đi cạnh cô gái trẻ măng với những bước đầy tự tin. Họ nói với nhau nhỏ nhẻ, chừng mực, khó nói được là gần gũi hay cách biệt, thành thật hay khách sáo. - Cô ơi ra ngoài này với em một tí! Thuận mỉm cười. Cô bé quả đang còn là cô bé, còn nũng nịu đáng yêu thế! Chị khoác vai cô học trò cũ, hạ giọng, thì thầm: - Bạn trai của em đấy à? - Chưa đâu cô ạ. Chắc là còn... nhưng... cũng có thể! Cô góp ý cho em đi! - Góp là góp thế nàỏ Tùy em chứ! - Em không quan tâm đến tuổi tác. Tuổi tác có nghĩa gì khi đã thực sự hiểu nhau, yêu nhau, cô nhỉ? Rồi em sẽ thưa với cô saụ Thôi xin phép cô, em tiễn anh ấy một đoạn. Thuận quay vào, thấy như hụt hẫng điều gì. Thật sự hiểu nhau yêu nhau thì còn gì phải nói, nhưng hiểu nhau chưa chắc đã yêu nhau và ngược lại. Tốt quá với nhau, bỏ qua những chuyện tưởng không thể bỏ qua như bố mẹ em đấy thôi, họ có chung sống với nhau trọn đời đâu! Con người có thể bước qua lỗi lầm đã hối cải nhưng tuồng như khó lòng bước qua niềm tin đã bị nứt vỡ... Đúng vậy chăng? Thuận sà xuống hiên nhà nơi hai cha con đang ngồi vò chè, bị cuốn hút ngay bởi những bàn tay đàn ông gân guốc nhưng mềm mại, khéo léo lạ thường của họ. Chè búp trước khi sao phải được vò cẩn thận, đúng kỹ thuật, mới giữ màu, được nước và khi lên than lửa liu riu mới không bị gãy nát; sao khô rồi mới hiện hình những chiếc móc câu tuyệt vời. Chẳng phải lần đầu nhìn thấy, Thuận cũng đã từng học, từng làm khá thành thạo, nhưng sao giờ đây nhìn những bàn tay xoay vò những búp chè "một tôm hai cá" tròn vo, mạnh mẽ và vẫn nâng niu, tưởng như tách rời mà vẫn xoắn xuýt, chị bỗng thấy bồi hồi xúc động, nghèn nghẹn nơi lồng ngực... Ông Kiệm đứng lên: - Để Toàn nó làm nốt, cô giáo ạ. Mời cô vào trong này tôi xin thưa một chuyện. Thuận bị bất ngờ, hơi biến sắc. Ông Kiệm cuống cuồng, líu lưỡi một lát: - Chẳng... không, không có gì... Tôi chỉ muốn nghe một lời khuyên của cô thôi, cô giáo à. Chả là ngày mai, anh em chúng nó về xuôi thăm mẹ chúng. Một bà ở quê tôi, một bà ở Hải Phòng, cô ạ! Thuận thở hắt một hơi nhẹ, trong khi Toàn nhìn bố lưng lẻo, diệu vợi... Chắc chắn đây là lần đầu anh chàng nhìn bố như vậy. ...Thuận ra về sau khi "lấy hương" một mẻ chè sao mà chị bảo để chị làm thử; và ông già Kiệm vốc một vốc đưa lên hít hít, khen: "Đẹp, hương đẹp lắm!". Thuận nán lại một lát nơi đỉnh đồi nửa vát nửa tròn, mắt đăm đắm nhìn vào những hàng chè mới lên độ gang tay. Những cây non trông mới sức vóc làm sao, dù chúng vẫn còn chút rụt rè khi từ đất trồi lên chạm phải bao la khoáng đãng vùng đồi. Cái màu tro than sầu đông của đất đồi ở đây thật đặc biệt, nó nâu sẫm hẳn là không nhưng xám nhạt cũng chẳng phải. Có một chút gì anh ánh trong đó, rất khó tả nhưng lại làm người ta yên lòng - Thuận nghĩ. Ông già Kiệm đấy, ông đã hỏi chị những điều mà nếu như xem chị là người đặc biệt tin cậy, có khả năng làm yên lòng người khác, chí ít là những người trong gia đình ông; thì ông không hỏi. Như là một dịp tâm sự, giãi bày, bàn luận... Phải vậy thôi, những người con của ông, lớp thanh niên mới bây giờ, họ đâu có xa vời với đạo lý làm người, với truyền thống cha ông, mặc dù họ có thể nghĩ khác làm khác ông chuyện này chuyện kia... Buổi sáng hai đứa con lên đường, ông Kiệm dậy sớm hơn thường lệ. Ông không đun nước bằng củi trong bếp như mọi khi, mà quạt một lò than nhỏ cho hồng rồi bắc ấm lên. Than tí tách, phi phi... đượm dần. Gian nhà ngoài ấm sực. Ông nói vọi vào bếp với con gái: - Chong chóng lên con. Ra ga sớm một chút cho khỏe. Mình đợi tàu chứ tàu không đợi mình! - Vâng ạ. Bố và anh cứ xuống xong tuần trà là con đâu vào đấy thôi mà! Ông đưa tay ra mời con trai ngồi vào bàn trà, trân trọng đến nỗi Toàn há mồm nhìn cha một giây. Người con vụt hiểu, mỉm cười không nói gì, để bố tự nhiên. Đã lâu lắm, hai cha con mới lại ngồi đối ẩm, đúng với tinh thần một cuộc đối ẩm bạn bè, dường như thế thì phải... Ông Kiệm tráng ấm, lường lượng chè cho vừa cho vào ấm, "làm lông" xong, rót nước vào, ngồi đợi chè ngấm. Hai cha con im lặng, dường như giờ đây họ chẳng có việc gì quan trọng bằng việc thưởng thức mùi vị ấm chè ngon của vùng quê đồi quen thuộc mà lạ lùng này. Lát sau người con nói, giọng hơi chìm lẩn nhưng thiết tha: - Bố à, bố còn tráng kiện lắm; con nghĩ rồi đây chúng con sẽ không còn ở nhà luôn bên mình bố được nữa; bố hãy... bố nên... Người cha ngắt lời: - Bậy nào! Là con ấy, bố biết, hình như con... Ông ngừng lại, với tay cầm ấm chè, rót. Và bỗng nhiên, ông nháy mắt tinh nghịch với cậu con trai: - Con biết không? Có lần bố đến Hàng Châu, được mời uống chè ở đó, họ nói - mà hồi xưa các cụ nhà ta sành sỏi cũng đã nói rồi! Rằng trà có nhiều nước. Nước đầu là "Nước thiếu nữ". Thanh khiết, ngào ngạt. Nước thứ hai là "Nước thiếu phụ". Đượm đà, nồng nàn, sâu thẳm. Đấy mới là nước ngon nhất trong một ấm trà. Dư vị trong cổ họng cứ đọng hoài... không tan. Con có biết không, Toàn? Người con trố mắt. Điều này thì anh chưa biết thật!... 12-1999 H.N
|