THƠ NGUYỄN NHƯ MÂY
- Details
- Published Date
- Written by Võ Quê
- Hits: 9284
Giới thiệu những bài thơ của nhà thơ Nguyễn Như Mây hiện đang sinh sống tại Phan Thiết.
THƠ NGUYỄN NHƯ MÂY
NHỮNG VÌ SAO
Mời em chọn một vì sao
Ngôi nào mới nhất trong màu áo Em
Ngôi nào đẹp nhất trời đêm
Đẹp như con mắt đa tình của EmNgôi nào khi mới nhìn lên
Mắt anh đã nhận ra mình trong Em
Ngôi nào lấp lánh sao đêm
Mới vừa mọc đã thấy chìm vào anh.LƯU BÚT HỒNG
Tóc con gái đợi ngày hè đến
Nghiêng nửa vai để thấy môi hồng
Rủ nhau ngồi trắng hết bờ sông
Và chép tặng những lời hoa cỏAi cũng hái theo cành phượng đỏ
Để hóa trang nhân vật của mình
Chín mười năm ngồi ghế học sinh
Giờ lưu bút … viết sao cho hết!Nước mắt ai để dành trong viết
Chờ thả dòng mực tím bâng khuâng
Nắng chiều hè rưng rức bên sông
Quên nhuộm tím áo dài bè bạnChưa bao giờ bọn mình hò hẹn
Để rồi cùng đưa mắt nhìn nhau!Ai viết xong trước hãy chiêm bao
Cho lưu bút lắng hồn mực tím
Ai còn cầm bút và bịn rịn
Xin trao mình một nửa môi cười
Còn nửa kia mai mốt xa xôi
Dành gói nửa vầng trăng thương nhớ…
PHAN THIẾT RA GIÊNG
Phan thiết ra giêng em đi học
Khoác thêm áo lạnh, choàng thêm duyên
Ngã tư xe lửa un đầy gió
Chút lạnh ngày đông ráng lạnh thêm.Phan Thiết ra giêng đường phượng nắng
Hoa còn sợ gió trốn môi em
Thị xã xưa, xưa tràn áo trắng
Mái lầu Tháp Nước đỏ dần lên.Phan thiết ra giêng em ôm cặp
Tụm ba tụm bảy nụ cười xuân
Em thầm nghiêng nón trên cầu sắt
Hỏi sông Mường Mán những buâng khuâng.Phan Thiết ra giêng ai ngồi quán
Vờ tí co ro nhìn sân trường
Hình như gió bấc còn lãng mạn
Thả chút rêu phong lạnh dễ thươngPhan Thiết ra giêng nghe ngọt xớt
Gió bấc lang thang đời trẻ trung
Tưởng chừng gió tết bay còn sót
Thổi trong khói pháo đỏ rưng rưngPhan Thiết ra giêng là hết Tết
Em còn mực tím thả mênh mông...
TRĂNG
Trăng ở bên này sông
Đêm đêm còn một nửa
Nửa kia vàng thương nhớ
Ai gửi nước xuôi giòng
Trăng ở bên kia sông
Đêm đêm mòn nước chảy
Ai có về bên ấy
Cho gửi nỗi chờ mong
Trăng hai bên bờ sông
Đêm đầy rồi đêm khuyết
Nỗi niềm nào ai biết
Chỉ thấy trăng mãi còn...
GA RỪNG
Đêm đông lạnh hơn dao cắt
gió núi chợt làm phong ba
tàu khuya quen đời lưu lạc
bỏ đi như kẻ không nhà
Ta còn nửa ly rượu đắng
co ro bếp lửa ga rừng
gió bụi dọc đường lẻ bạn
ta thèm một chỗ ngồi chung!
Ai người vô danh trôi nổi
ghé ta uống chút rượu tàn
rồi mai mỗi người một ngả
- tàu qua, ta về phương nam
Ga rừng, ta làm lữ khách
độc ẩm ga rừng trống không
ta đành sương núi bềnh bồng...
TÌM EM
Anh tìm Em, tìm Em
cây dọc đường, đã mỏi
gió kéo dài cơn đói
đuổi không kịp lá vàng
Anh tìm Em, lang thang
mắt đau từng góc phố
chân lê dài nắng đỏ
hồn nghiêng ngả, bơ phờ
Vòng tay anh sóng xô
vỡ từng trang kỷ niệm
vết bầm xưa lên tím
chưa quen bước giang hồ
Anh đếm từng cơn ho
xé rách chiều lưu lạc
che tay mồi điếu thuốc
anh thèm cốc rượu tàn
Em nào biết thu sang
anh nằm, không ánh lửa
ngoài trời ai trở gió
làm rớt mảnh trăng khuya..
GỬI NGƯỜI DƯƠNG THẾ
Tôi không vĩnh biệt cuộc đời
chỉ đi khuất ánh mặt trời trần gian
người yêu ơi, chớ khóc than
tim tôi vẫn đập nhịp nhàng trong Em
tôi về sống với đêm đen
để im lặng ngắm cõi miền trống không
và nghe rõ giọt máu hồng
lắng hồn cát bụi, tan cùng lẻ loi...
Người yêu! hãy cất tiếng cười
khi đưa tôi đến chỗ tôi sẽ nằm
chiếc nôi của tuổi trăm năm
từ thiên cổ vẫn để dành cho tôi...
Xin em đừng khóc, hãy cười
coi như trăng đã lặn rồi - phía Tây!
GỬI PHƯỢNG BUỒN
biết khi mô Phượng mới hết buồn?
mắt lá răm hiu hiu nắng hạ
sông Hương thầm gửi về chiếc lá
chút hoàng hôn gờn gợn triều đi
thuyền của ai neo bến chờ ai
sao Phượng chẳng đỏ giùm ngọn lửa?
đèn chài thắp lửng lơ mái đẩy
sao Phượng còn đang khuất vầng trăng?
một hai hôm nữa để trăm năm
đường hoa phượng còn ai đi học?
gió sẽ thổi khói bồng mái tóc
tóc Phượng buồn còn thoảng hương chanh…
thôi Phượng ơi chim cứ chuyền cành
cứ áo trắng như là mây trắng
sân trường sẽ mơ vào sâu lắng
dáng Phượng ngồi năm tháng tươi ngoan
đã thu rồi Phượng hết lang thang
trăm phố cổ rêu phong mái ngói
tay chúng mình mọc thêm ká mới
để chia nhau trang vở học trò
Phượng! Phượng ơi hãy cứ ước mơ
và hãy cứ bừng thêm sắc đỏ
DÃ TRÀNG
Không có biển, dã tràng ở đâu
để xe cát ngày đêm cần mẫn
để hò hát nhịp đời lãng mạn
và để yêu cả một đại dương?Không có sóng, dã tràng về đâu
để lặn lội giữa lòng cát lạnh
mãi đào hang giấu đời bất hạnh
sống âm thầm, mặc kệ trần gian?Không có trời, dã tràng đi đâu
tìm thiên đường hay tìm địa ngục,
triệu xe cát vẫn thành bất lựctrời vẫn xanh và biển bao la?
Không có thô dã tràng biết đâu
bờ cát trắng một lần hò hẹn
áo người yêu lẫn vào chiều tím
mái tóc thề lộng lẫy trăng sao?Không có tôi, dã tràng nghĩ gì
về một kẻ lang thang ngoài biển
suốt một đời chưa tìm ra bến
neo chiếc thuyền đợi một người thương?
Đọc Tập Thơ Chép Tay Của Nhà Thơ Nguyễn Như Mây
Mang Viên Long
Cách đây gần một năm, tôi nhận dược tập thơ chép tay của nhà thơ Nguyễn Như Mây gởi tặng-có tựa là “ N Ú I “, khổ 20X10 cm-trên giấy pelure xanh, chữ viết màu đen-rất trang nhã! Tôi rất vui-cảm phục tấm lòng yêu quý thơ ca đặc biệt của anh.
Tháng trước đây-NNM có dịp về Trung-ghé Gò Bồi ( Tuy Phước/ Bình Định) là quê nội để dự ngày giỗ kỵ-đã ghé lại thăm tôi. Dịp này NNM lại tặng tôi tập thơ chép tay “ NÚI, Và Bản Thảo Thơ Không Đề” ( cùng khổ tập thơ chép tay trước ) nhưng dày dặn, công phu hơn! Tập thơ dày 108 trang -(chép một mặt giấy-không tính 12 trang đầu-cuối/ bằng giấy vân dày màu hồng/ xanh)-gồm 54 bài thơ , phần nhiều là bốn, sáu, tám câu,-bài dài nhất 15 câu .
Hỏi phải mất thời gian bao lâu mới chép xong 1 tập, nhà thơ cho biết:“ nếu khoái thỉ chỉ trong 1 giờ, có tập phải mất vài giờ, đôi khi cũng phài vài ba ngày!”. Vậy mà NNM đã cặm cụi trình bày bìa, chép thơ, rồi gởi tặng cho hơn 100 bạn bè trong cả nước-thật đáng nể!
Hơn một nửa số bài NNM dành viết về “Núi”: “Núi ơi/Sương khói/bềnh bồng/Ta/trần gian lắm/Núi đừng/ cười/ta..”. Tôi “ loại bỏ” không mấy quan tâm đến thể loại thơ/ hình thức ngắt câu-vân vân, mà chỉ “ đọc thơ” bằng sự tĩnh lặng như nhiên của trái tim mình! Mọi thứ hình thức “ tân/ cổ”-đều chỉ là một loại “ trang trí” phù phiếm-không cần thiết cho Thơ -khi câu chữ cứ chắp vá kỳ dị không rung lên chút hơi hướng gì của cảm xúc, của trí tuệ!
Cái nhìn thẳm sâu về “ Núi” qua bao biến chuyễn, đổii thay của đời người:
“ Hồi nhỏ ở nhà bên núi
lớn lên thấy núi bên nhà
tới khi râu tóc đã già
vẫn thấy núi còn chỗ cũ!”
Có một câu thiền rất quen này: “Khi tôi chưa học đạo, tôi thấy núi là núi, sông là sông. Khi tôi học đạo, tôi thấy núi không phải là núi, sông không phải là sông. Sau khi học đạo xong, tôi lại thấy núi là núi, sông là sông.”. Cái “ thấy” của nhà thơ lúc này là cái “ thấy” của người đã hiểu đạo-nhận biết lẽ nhiệm màu của van pháp! Cảnh giới của nhà thơ “ ngộ” được không khác cảnh giới của một thiền sư-dù chỉ trong giây lát!
Nếu có khác biệt chăng-đó là “ cái hồn nhạy cảm “ rất riêng của người nghệ sĩ khi đứng trươc núi mà thôi. Như là:
“ Mùa thu, núi ngủ trong mây
có người vào núi gánh đầy khói
sương
Một hôm qua nẽo vô thường
Nghiêng vai trút hết khói sương
xuống đèo…”
Giây phút “ thấy” tinh khôi tuyệt vời ấy về “ Núi” đã được Nhà thơ lập đi lập lại trong nhiều bài thơ rất tự- nhiên- như -là:
“ Ở xa, thấy núi thấp
tới gần, thấy núi cao
chẳng giống như chiêm bao
gần, xa đều mất hết! “
Hoặc tỉnh giác hơn khi quán về đời mình với núi:
“ Chưa lên núi, thấy sợ
núi cao vút tầng mây
tới rồi, ta mới hay
lòng mình còn hơn núi! “
Ví như sự đắm chìm trong mê lầm huyễn mộng của kiếp nhân sinh:
“ Đi trong núi không thấy núi
đi trong mây không thấy mây
không thấy ngôi chùa sương khói
khuất dần trong núi, trong mây”
Khởi từ nguồn xúc cảm thiết tha về “ Núi”- Nhà thơ đã hòa nhập, đã sống với, đã yêu thương, tâm tình bao điều với “ Núi” bằng một mối thâm tình tiền kiếp! Với ý thức của một người khát vọng tìm đạt chân lý- lẽ thật của đời sống, Nhà thơ đã hồn nhiên ghi lại phút giây “ ngộ” được của chính mình trước núi-thật sâu sắc! Tuy vậy- tư tưởng chủ đạo gắn bó lâu dài trong “ Núi” không là triết lý của Phật giáo-mà nó được kết hợp, quy tụ từ nguồn triết lý sống của Lão Trang nữa. Nó không tích cực dẫn người đọc đến một bến bờ nào-mà chỉ “ gợi lên”-mở ra-một chân trời thênh thang để người đọc tự mình bước vào. Tình cảm ấy về “ Núi” được tìm thấy bàng bạc trong nhiều bài thơ-tiêu biểu là:
“ Ngả lưng tìm giấc ngủ
giữa núi rừng lặng im
Chẳng ngờ suối và chim
róc rách hoài trong lá
Và, không ngờ-thật lạ
mình cũng chảy tràn lan
Cả một trời thu vàng
gập gểnh bao xác lá! “
Phần “ Bản Thảo Thơ Không Đề”-NNM còn dành viết về Tình Yêu-một tình yêu man mác, nhẹ lướt, mơ hồ với một phong cách thơ rất riêng –như là:
“ Hái cành hoa dại tặng Em
cài lên mái tóc vừa nhen nắng
chiều
hoa mang sương khói lưng đèo
bỗng nghe ấm tiếng trong veo Em
cười…”
Chỉ nói về “ hạt cát” thôi-nhà thơ cũng đã mở ra được cái mênh mông của Tình yêu:
“ Em bỏ quên đồi cát
vết rong rêu phiêu bồng
Làm sao biết mênh mông
giấu trong từng hạt cát
Làm sao nghe sóng hát
dội hết vài nhớ thương
Trong khi cả đại dương
giấu vào anh hạt cát ?
Thái độ tỉnh giác rất thơ mộng cần có trong cuộc tình, cuộc đời-để giữ cho lòng mình luôn tươi mát, hy vọng:
“ Dù đời không bất diệt
ta vẫn ngóng trăng Rằm
Dủ ta chỉ trăm năm
vẫn không buồn trăng khuyết “
Rất đôi khi, Nhà thơ cũng đã bị cái “ điêu tàn/ lênh đênh” của kiếp nhân sinh làm cho điêu đứng, choáng váng như bao người-nhưng, ngay trong giây phút ấy ( trốn vào trong núi đắng cay một mình (!) ) -Nhà thơ đã có được cái nhìn như thật- “ năm mươi năm mãi đi tìm chiêm bao”/ để xoa dịu dần nỗi “ điêu đứng/ chênh vênh” nọ: Đây là một tình cảm rất thường bắt găp trong thơ NNM –phải chăng đó là một cách giải bày “ nhân sinh quan”của anh trước thời cuộc?
“ Chính ta, kẻ đã điêu tàn
uống xong chén rượu thu vàng, về
đây
ngồi chờ ngày tháng tàn phai
trốn vào trong núi đắng cay một
mình…
Chính ta, kẻ đã lênh đênh
năm mươi năm mãi đi tìm chiêm
bao
- Có gì ngoài cõi trăng sao
treo trên trái đất bạc màu thế gian?
Sự thất vọng quá đỗi khi đã “ trốn vào trong núi” mà “ lòng mình thì phơ phất/như lau trắng đầy rừng?” là một hình tượng tiêu biểu cho bao cảnh đời hôm nay?
“ Ta tìm gì trong núi
khói sương hay lòng mình
Sương khói thì bồng bềnh
tìm chẳng bao giờ gặp!
Lòng mình thì phơ phất
như lau trắng đầy rừng… “
Thật cũng dễ hiểu-cuối cùng rồi cũng phải trở về với “ sát na hiện tại vô giá” mà tư tưởng Phật giáo luôn nhắc nhở cho tất cả-bởi dó chính là chân lý của dời sống ( hay triết lý sống đích thực) –Nhà thơ dần dần cũng “ ngộ “ ra :
“ Ngày mai chưa tới, ta chưa biết
-mặc kệ những gì sắp xảy ra…
chỉ biết hôm nay nhìn cỏ dại
ta còn thấy nở một màu hoa…”
Và vô cùng trân trọng:
“ Xin cảm ơn trời đất
bốn mùa đều nở hoa
và xin cảm ơn ta
đến Xuân là thay lá..”
Từ “ cái nhìn “ thẳm sâu vào sát na hiện tại mầu nhiệm-Nhà thơ cũng đã “ vỡ ra” nhiều điều quanh mình-tất tụ nhiên,tha thiết:
“ Cám ơn ánh sáng ngọn đèn
thâu đêm suốt sáng vẫn nhen nhóm
hồn
Cám ơn Người vẫn sớm hôm
Cầm cây đèn đứng soi đường cho ta…” (1)
( (1) phỏng ý một câu thơ của R.Tagore-thi hào Ấn độ-viết về Đức Phật).
Ngẫu nhiên ( hay hữu ý?)-bài thơ cuối cùng của “ NÚI và Bản Thảo Thơ Không Đề” – là nỗi đau chưa được chia sẻ, chưa có sự đồng cảm trong khát vọng “ đi tìm chiêm bao” của Nhà thơ như một nổ lực tích cực đem lại “ lẽ thật” cho cuộc đời -dù nhắm mắt hay mở mắt-cũng là huyễn mộng:
“ Dọc đường, ghé xin nước
chủ nhà hỏi: Đi đâu?
bảo : đi tìm chiêm bao…
chủ nhà không cho uống! “
Riêng tôi tin rằng : ” Với tấm chân tình và lòng nhiệt thành đến vói Thi ca, với đời sống-Nhà thơ sẽ tìm thấy dòng suối trong lành ngọt ngào tinh khiết trong một quãng đường sắp tới- không xa! “./.
Quê nhà
Cuối tháng 4/2010
M.V.L
Nguyễn Như Mây ( ảnh do Nhà thơ Phạm Phú Thanh ghi - Dalat-2000)