NHÀ THƠ LÊ HUỲNH LÂM
- Details
- Published Date
- Written by Võ Quê
- Hits: 8728
Giới thiệu Nhà thơ Lê Huỳnh Lâm.
Bút danh: Lê Hoàng Hải, Hoàng Diệp Lạc,
Sinh năm: 1967
Nghề nghiệp: Đại học Toán.
341 Bờ Sông Hương - Huế
Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
Có bài viết in trên các báo: Tia Sáng, Tuổi Trẻ, Kiến Thức Ngày Nay, Văn Nghệ, Tạp chí Sông Hương, Văn Hóa Huế, Thừa Thiên Huế, Phụ trương Thơ báo Văn Nghệ, Quê Hương, Tuần báo Giác Ngộ, Nhớ Huế…
Tác phẩm đã in:
SÔNG HOA tuỳ bút – Nhà xuất bản Thuận Hoá 5/2006.
THI CA MÙA NGÁI NGỦ tập thơ – Nhà xuất bản Thuận Hoá 2010
Giao cảm tập thơ “Thi ca mùa ngái ngủ”Phạm Tấn Hầu
Có tập thơ chỉ là tập hợp những bài thơ. Nhưng “Thi ca mùa ngái ngủ” của Lê Huỳnh Lâm, dù là tập thơ đầu tay nhưng đã thể hiện một cái nhìn nhất quán về thế giới thi ca mình khám phá. Đó là thế giới được mở to trước những “cơn đau”, trước “nỗi kinh hoàng vây quanh trái đất”, “trong đền thờ quỷ ma” và trong cả “ngôi nhà không thần thánh”…
Ở đây Lê Huỳnh Lâm không quan tâm tra hỏi hay tìm cách định nghĩa thơ ca. Anh cũng không màng gọt giũa ngôn từ, nhịp điệu cho vừa với cảm xúc. Vì rằng cảm xúc anh đem đến cho người đọc thật mãnh liệt và tinh khôi.
Có lẽ, nỗ lực của anh chính là muốn vượt qua những lối mòn đang đẩy nghệ thuật quẩn quanh trong khu rừng của sự mỹ miều nhưng trống rỗng. Tìm một cách biểu hiện khác, một tiếng nói khác quả là điều khó khăn, và đôi khi được xem là không hiểu nổi(!). Nhưng nếu không đi một mình, nói tiếng nói của mình ắt suốt đời sẽ bị cầm tù trong khu rừng nghệ thuật kia. Hãy nghe niềm trăn trở của anh:
Tiếng mõ khuya hay tiếng người gõ cửa
Lời cầu kinh hay bài ca trốn chạy
Ký ức của bao đời trỗi dậy
Từng mảnh thần tượng vỡ rơi đầy.
Buồn thay! Nếu như mỗi bước ra đi đều như giẫm phải mảnh vỡ kia. Thần tượng đổ vỡ ắt hẳn niềm tin cũng tan tành. Vì đó không chỉ là cặp phạm trù ắt có của cuộc sống, mà còn là đôi cánh của tâm hồn. Vậy là nỗi đau của chúng ta đã bị nhân lên gấp bội. Còn đối với nhà thơ, người suốt đời “cô đơn quấn chiếc khăn bạc màu” niềm đau ấy quả là khôn kể xiết!
Đọc những dòng thơ này trong ta bỗng dấy lên niềm bâng khuâng liên tưởng - phải chăng vì không vượt qua được sự đổ vỡ kia mà Hemingway, Maiakosky, Khuất Nguyên, Nhất Linh đã phải tự kết thúc nỗi dằn vặt của mình(?).
Và, để chiêm nghiệm sự đổ vỡ đó tác giả đã hướng cảm xúc đến nỗi thống khổ của cộng đồng, của phần thế giới bị che khuất bởi chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, và lòng đố kị, hận thù…
hôm nay
những gã thi sĩ say
hồn bay khỏi cảnh giới A-tu-la
những đứa trẻ chưa biết chữ
đã biết cầm súng, cầm gươm, nhấn nút điều khiển computer
thế giới này
đổ vỡ…
Vậy đó, như một hệ quả tất yếu, càng xây dựng nhiều thần tượng thì sự đổ vỡ càng nhiều hơn… Và bây giờ thì:
Chiếc cầu đã gãy
Bàn tay rệu rã
Thả viên sỏi vào dòng sông
Ai không giữ lời thề
Sự đổ vỡ đè trên trần thế.
Thật chẳng bất ngờ chút nào, khi Lê Huỳnh Lâm đã dành nhiều mối quan tâm, nhiều tiếng nói khác nhau cho sự đổ vỡ đau đớn kia.
Tuy vậy, nỗi đau đó không phải để buột lên tiếng thét của tuyệt vọng, mà để cất lên tiếng nói của trách nhiệm và của lương tri trước những số phận nhỏ nhoi; những người phu xe thèm giấc ngủ, gã thi sĩ thèm được ăn thịt, người tử tù trong xà lim tối tăm…
Với tiếng nói đó, thơ Lê Huỳnh Lâm như đã thoát khỏi cái Tôi nặng nề, kể lể. Nói như A. Einstein: “Giá trị đích thực của một con người trước hết được xác định bởi anh ta đã đạt đến chỗ giải phóng cái Tôi đến mức độ nào và theo nghĩa nào”.(Thế giới như tôi thấy)
Trong cách nhìn ấy, Lê Huỳnh Lâm làm thơ như thể để lặng lẽ trò chuyện về bao mối ưu tư nặng trĩu trong tâm hồn mình.
Vì thế, thơ Lê Huỳnh Lâm đầy ắp những sự kiện, dẫn chứng gần với thể loại thơ văn xuôi. Nhiều bài thơ thể hiện sự phóng túng, không bóng bẩy nhưng lại toát lên vẻ đẹp có tính khắc họa giản dị mà bí ẩn…
đêm tháng bảy mình ta với phố
một vòm cây
một bóng trắng
một trời mơ
con đò nhỏ dần xa bến nước
lặng lẽ ngày đêm
lặng lẽ chờ.
Những hình ảnh được dựng lên ở đây không phải để mơ mộng, mà để dẫn dắt về nơi ngọn nguồn của nỗi cô đơn:
Đêm mất ngủ
Nhìn đoàn người du mục trên chính quê hương mình.
Nhà thơ không thể chạy trốn nỗi cô đơn bằng cách úp mặt vào bóng tối. Bởi vì, chính tận ngọn nguồn đó là sự khác biệt về đau khổ, lòng kiêu hãnh, và cả sự tự hào về trách nhiệm… Tất cả mọi thứ đó, đòi hỏi phải có tiếng nói, phải có ngôn ngữ để chuyển dịch thành cuộc sống của thi ca.
Tôi nhớ tới một câu nói của A. Camus đại ý: nghệ thuật là sự chuyển dịch điều mình cảm thụ vào trong điều mình mong muốn kẻ khác cảm thụ cho.
Trong ý nghĩa đó, tập thơ “Thi ca mùa ngái ngủ” đã cho người đọc cảm thụ được thông điệp tác giả mang tới. Đó là thông điệp của sự bất trắc vì quá văn minh, nên đã rô bốt hóa các quan hệ con người … có lẽ, tinh thần của thông điệp này không phải là điều mới mẻ, nhưng cách thức lên tiếng, quyết định một cách viết của tác giả cho thấy sự dũng cảm của một người đứng riêng rẽ - không phải vì lỗi hệ thống mà vì mối ưu tư anh cảm nhận thật lớn và ngày nào còn trĩu nặng mối ưu tư, còn bao điều cảm thụ, chúng ta sẽ còn đọc được những thông điệp thực sự từ cuộc sống, thông qua tài năng chuyển dịch của những nhà thơ, của Lê Huỳnh Lâm…
Huế
11-2007
Phạm Tấn Hầu
THƠ LÊ HUỲNH LÂM
Chiếc áo hoa
Tặng: B.
“thương nhau cởi áo cho nhau”
(trích ca dao)
trái đất tăng nhiệt
thành phố 37 độ
buổi chiều
những khuông mặt diễu hành qua đại lộ
mơ hồ ánh mắt em xoa dịu nỗi nhớ
bơ vơ đám mây trắng đầu hạ buồn
người thiếu phụ bước ra từ câu chuyện cổ tích
đánh thức gã đàn ông ngủ say giữa khu rừng bí sử
gieo vào đất hạt giống loài hoa bất tử
vũ trụ sinh thành từ phút giây người trao chiếc áo hoa
tình yêu tạo nhịp quay địa cầu
ba ngàn thế giới nhuộm màu tâm thức
đêm
nhìn mặt đất thấy dáng em thiên thần
anh cầu xin thượng đế
bay cùng em chỉ một lần
để trở về triệu triệu lần xưng tội
nhớ đoá hoa môi và đôi mắt sầu quyến rũ
dặt dìu hương
dỗ dành
giấc ngủ
khuya.
Huế, 4/2007
Chiều Tam Giang
Tặng: B.
chiều Tam Giang
nghe hơi thở ngàn năm của biển
giọt mồ hôi mằn mặn dáng phong trần
con trìa, con ốc, … cũng sinh thành hoại diệt
bóng thuyền xanh màu mắt mẹ hao gầy
chiều Tam Giang
gió bạt ngàn rưng hanh giọt nắng
chuyến đò tròng trành giữa hai bờ tử sinh
anh gom mây vẽ hình hài đất nước
đặt cược cuộc đời vào giấc mơ
chiều Tam Giang
bơ vơ một cõi người
những con đười ươi biết cười khóc
gió biển đông thơm mùi hải sản
bờ cát cong mềm dòng tóc em
chiều Tam Giang
dát vàng khảm vàng da vàng mắt
vết nhăn hằn giục dặt đời áo cơm
em thèm nghe lời yêu thương đầm phá
cánh rừng già rụng ánh tà dương
chiều Tam Giang
em thì thầm bài ca gọi gió
anh ước mơ con đò mọc cánh bay
tan giữa hoàng hôn tràn đầy cám dỗ
Tam Giang ngàn năm lạnh bóng người.
Huế, 7/2007
Tự tình của rừng
giữa khu rừng già mùa hạ
người con gái bước ra từ màu xanh cây lá
hát bài ngợi ca mưa
cánh rừng buổi chiều chỉ còn gió và tiếng chim cu buồn
người con trai dang cánh tay dài
hái ánh mắt mùa thu thả vào giấc ngủ
tháng ngày cứ rủ nhau về phía vô cùng
những vùng tối bừng lên ánh lửa
soi sáng cửa u mê
người con gái gieo nụ buồn lên đôi môi cánh rừng rực nắng
đường về lạnh vắng những bàn chân chai mòn
ngọn đồi mùa đông mang hình hài thiếu phụ
vọng lời ru núi rừng
mặt đất trăm triệu năm rưng rưng mầm sự sống
đọng trên khoé mắt gầy
người con trai bay vào giấc mơ mùa xuân
nơi yên nghĩ cuối cùng.
Huế-8/2007
.
Âm thanh đầu ngày
sự lặng im
hơi thở
tiếng cọ sát
nền văn minh cơ giới
lốp đốp
những hạt rơi
sóng thời gian tràn vào căn nhà thiếu thất
tiếng chuông rơi
tiếng gà gọi mời
tiếng bước chân dần vơi
mặt trời rạn nứt
giọt huyết hoa.
Huế, 2008
.
Mặt trời rét
mặt trời rét
mùa xuân run cánh mỏng
một nụ ngày rớt lệ khóc thương
đường ướt lạnh tiễn hồn người vạn nẽo
lối xưa về vỡ hạt mưa cay
mặt trời rét
mằn mặn trên khoé mắt
chảy nhoè chiếc bóng giữa ngày xuân
ngón em gầy khuấy trời trong đáy cốc
giọt rượu nồng lạnh tái hồn thơ
mặt trời rét
giấu ngày trong khuya vắng
ngẩn ngơ tay vẽ nắng nguội mềm
ánh mắt đêm trắng màu tóc mẹ
giọt kinh buồn thôi thúc tái sinh
mặt trời rét
đóng băng đồng ruộng
mịt mù mắt gió nhuộm màu đông
mỏng manh dáng người nhuốm màu đất
gieo vào đêm chút hơi ấm xanh tình.
Huế, 2/2008
Hoa của thời gian, hoa của con người
· Hoàng Diệp Lạc
Thời gian và hoa. Như cặp phạm trù mỹ học sung triệt lẫn nhau. Nếu không có hoa thì thời gian trở nên vô nghĩa. Nhưng thời gian là kẻ tòng phạm khiến đời hoa qua nhanh. Vì thế tôi gọi thời gian và hoa là cặp phạm trù mỹ học sinh triệt lẫn nhau. Thật ra, mọi vật đều chịu chung một quy luật như vậy cả, chỉ có điều, hoa là biểu tượng của cái đẹp, sự thăng hoa lộng lẫy của hành trình sống, như một bài học của thiên nhiên dạy cho đối tượng chiêm ngắm mà khản giả chính là con người phải biết chịu ơn của tạo hóa. Ngày nay để đáp lại hàm ơn đó người ta kêu gọi mọi người hãy bảo vệ môi trường. Đó là trực nhận và suy diễn của tôi khi nhìn nhan đề của tập tản văn Nhưng giỏ hoa thời gian của Lê Tấn Quỳnh, do nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành 2013, bìa và trình bày Thái Ngọc Thảo Nguyên, không chỉ là sự gợi tưởng đó, mời bạn đọc bước vào thế giới “Những giỏ hoa của thời gian” để nghe sự chia sẻ từ tấm lòng của tác giả. Lê Tấn Quỳnh được biết đến như một nhà thơ, anh đã có những thành công trong quá khứ: Giải Nhất thơ Bút mới do báo Tuổi Trẻ tổ chức năm 1996, giải Khuyến khích thơ Tạp chí Sông Hương năm 1998, cùng với những tập thơ: Linh Ngọc - 1998, Vông Vang - 2009 và tập thơ Năm mặt đặt tên, in chung 2011.
Có thể nói tản văn của Quỳnh là tập hợp của những tính từ và hình ảnh của cuộc chuyển động giữa bầu trời xúc cảm bất định. Nơi vùng trời đó, như một khung vải trắng được căng lên theo từng trạng thái cảm xúc, Quỳnh tha hồ vung vãi những sắc màu của thiên nhiên để tạo nên từng tiết nhịp cho riêng mình.
Đối tượng đi vào trong tản văn của Lê Tấn Quỳnh là những sự vật xung quanh nhản quan của tác giả hoặc một mảnh ký ức vừa thành hình, như: Cọng cỏ bên sông, áng mây trắng tháng giêng, những cánh hoa suốt bốn mùa,... cho đến màu xanh của ngôi làng cổ, rồi mùa hoa lau bên bến sông, những sắc vàng của hoa chuỗi ngọc, sắc tím của bằng lăng, những đường cong của mái đò, đường chéo của cơn mưa trắng đục đất trời, những nét chấm phá của mùa lễ hội làm điểm nhấn cho xứ sở Thần kinh, những nò sáo dích dắc của sóng nước Tam giang ,... đôi khi sợi dây liên tưởng khơi dậy những hình ảnh trong tầng sâu của ký ức rồi gán vào hình ảnh của hiện thực qua tâm trạng và tài diễn đạt của tác giả đã cho người đọc những câu thơ trong tản văn: “Chiếc lá cũng như những cái vẫy tay của thời gian”, hay những lúc cảm xúc dâng trào, mà chủ nhân của nó không kìm lại được, không hướng sự dâng trào theo dẫn dắt của lý tính để rồi nó bùng lên thành đám cháy, thành cơn bão: “Đám sương cuối cùng cũng qua đi và thay vào đó là những tia nắng long lanh đến bất ngờ. Nắng dường như cũng không đủ cái nồng ấm sau khi men qua lớp sương dày đặc ấy, tiếp tục đi qua những tán cây rậm để đến với chúng tôi là những đám pháo - bông - nắng lung linh đủ màu”
Bên cạnh thành quách rêu phong, những phiên chợ trần gian là những cơn mưa ngút ngàn đã dẫn dắt tác giả vào mê cung của nổi buồn: “Cái dầm dề của cơn mưa cứ níu trải lòng ta xuống. Nỗi buồn nào có bất chợt hiện ra rồi cũng sẽ thoắt biến đi... chỉ còn lại tiếng mưa thanh thản trong hoài thai nỗi nhớ...”
Tản văn đầy chất thơ của Quỳnh như lời tự sự của anh với từng vùng đất mà bước chân anh đã ngang qua. Kể cả trong những giấc mơ hư ảo của cuộc đời, Quỳnh bất giác thấy mình: “Chẳng còn là ta nữa trong cơn lất phất ngổn ngang gam trời lồ lộ. Có thứ men rượu nào đủ say như men mưa Huế.” Chỉ tiếc một điều, trong cơn say ấy, người say thường lặp đi lặp lại những ngữ ngôn khiến độc giả nghĩ tác giả như lạc vào cánh rừng của từ láy mà chưa tìm được lối ra. Hay có thể đó là phong cách của tác giả để nhấn nhá làm đậm thêm nỗi buồn vốn dĩ đã chực chờ quanh ánh mắt người thơ.
Cũng như trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều từ láy được sử dụng rất tài tình và có tỉ lệ xuất hiện khá nhiều trong tác phẩm, đặc biệt là những từ láy biểu cảm về âm thanh. Thực ra, với tranh phong cảnh những danh họa rất kiệm màu trên mỗi tác phẩm. Người ta thường chia trên khung vải thành những điểm vàng, và nhắc nhở chúng ta nên thả vào những điểm vàng một cách tiết kiệm từng vệt son cảm xúc. Đọc tản văn của Lê Tấn Quỳnh, mới thấy rằng, “Những giỏ hoa thời gian“ chính là hoa của dòng sông, hình ảnh dòng sông đã xuất hiện rất nhiều trong tản văn của Lê Tấn Quỳnh. Đó là dòng Hương giang mà Quỳnh đã soi bóng, nơi đã hình thành ký ức và tính cách của tác giả. Hoa của thời gian chính là cái đẹp mà tạo hóa đã ban cho con người. Quỳnh như muốn nhắn nhủ với độc giả hãy quý mến thiên nhiên, quý mến từng giỏ hoa trong ký ức bất tận, những giỏ hoa trong cuộc sống này.
H.D.L
Những ngày sau cơn bão Nari, 10/2013
Tác giả Hoàng Diệp Lạc
.
XÔI CHUÔNG - TÌNH QUÊ TÌNH NGƯỜI - Lê Huỳnh Lâm.
Ảnh: Tien Vo.
XÔI CHUÔNG - TÌNH QUÊ TÌNH NGƯỜI
* Lê Huỳnh Lâm
Về thể loại, thì tản văn dành cho rất nhiều người cầm bút. Nhưng để viết tản văn có chất, có tầm,... thì không mấy ai. Một thời gian khá lâu, tôi mới có cơ hội cầm trên tay tập tản văn nặng về trọng lượng và chất lượng. Ngay cái đầu đề “Xôi chuông” cũng đã khiến người đọc tò mò. Xứ Huế này, đủ các loại xôi: xôi vò, xôi đậu, xôi bắp, xôi gà, xôi thịt hon, xôi cá, xôi nếp một,... và bây giờ lại có “Xôi chuông” của nhà thơ Võ Quê. Đó là nổi niềm riêng của tác giả, nhưng với đất Thần kinh này, thì tiếng chuông quen thuộc với mọi người đến chừng nào. Chuông Thiên mụ, chuông Phủ Cam, chuông Cồn Hến, chuông Tây Linh,... tiếng chuông là âm vang tĩnh thức, là nhạc của ngôi lời cảnh giới tâm linh, là niềm hy vọng của người dân khốn khó,... nhưng với Võ Quê, ngoài những ý niệm trên, còn là trợ lực cho người yêu quý đang lâm trọng bệnh. Phải ở trong hoàn cảnh đó mới cảm được tấm lòng tác giả, phải rơi vào thời gian và không gian tĩnh mịch đó mới chiêm nghiệm được âm ba diệu vợi của tiếng chuông. Tập sách dày hơn 230 trang, với 57 bài tản văn, trình bày ấn tượng với tranh bìa của họa sỹ Bửu Chỉ, trang trí mỹ thuật do họa sỹ Nguyễn Tuấn, Nhà xuất bản Văn học ấn hành, có lời bạt của nhà văn Trần Thị Ngọc Lan, in tại công ty Thuận Phát. Tất cả câu chữ trong tập sách là lời tâm sự của tác giả với một vùng đất nặng tình, là tiếng đập của trái tim nhân ái đầy trăn trở với xã hội. Nhưng qua những câu chữ của Võ Quê, người đọc còn cảm nhận được về một xứ miền phiêu hốt, về những dấu ấn văn hóa đậm chất Cố đô,... qua tour du lịch cùng thi ca Huế lưu truyền qua các thời kỳ, đặc biệt có:
Vò vọ mà chấm muối rang
Ai thích ăn vò vọ tìm Thuận An mà về.Hay với thời tiết Huế, tác giả như một chuyên gia về khí tượng học khi chỉ đem văn hóa tiền nhân để miêu tả thời tiết của bốn mùa trên đất Thuận Hóa. Và những hạnh phúc và trăn trở của tác giả khi Huế có con đường Trịnh Công Sơn. Trong bài về chợ Chuồn thuộc làng An Truyền mà mọi người thường gọi làng Chuồn, tác giả như trở thành người maketing miễn phí cho các đặc sản của làng mình như: cháo lòng o Rê, mắm rò mệ Nhỏ, đặc biệt bên cạnh thương hiệu rượu làng Chuồn nổi danh còn có bánh khoái cá kình là đặc sản chỉ có ở chợ Chuồn. Cũng là điều lạ đời nhưng lại có ở làng Chuồn: “Muốn ăn bánh, phải trực tiếp tới mua cá kình đem về hàng bánh khoái. Người ăn chỉ việc trả tiền bột, tiền công cho người đổ bánh”. Theo kinh nghiệm, nếu mua cá kình vào buổi chiều thì ruột cá có cát và chất bẩn. Những ngư dân cho biết, sau một đêm cá kình thải ra những dư thừa của ngày, nên buổi sáng, ruột cá rất sạch. Muốn có cá kình ngon, phải mua vào buổi sáng, vừa được cá tươi và sạch ruột.
Trong bài Nấm tràm, qua câu chuyện gia đình với hình ảnh người mẹ, người vợ gọt nấm gửi con trai. Nhà thơ Võ Quê lại hướng dẫn cho người đọc cách bảo quản nấm tràm. Ngoài những hình ảnh văn hóa và con người của vùng đất văn vật, tác giả còn giới thiệu đến bạn đọc những cuộc lữ hành trên mọi miền tổ quốc, hoặc qua những thành phố xa xôi như Gyeongju tận xứ Kim Chi, hay thành phố Lowell, bang Masachusetts, thành phố New Haven kết nghĩa cùng Huế, rồi Washington, New York ở Mỹ; nơi đã diễn ra cuộc trình diễn đặc sản âm nhạc Cố đô là Ca Huế cho công chúng Mỹ.
Không chỉ giới thiệu và gửi gắm tâm tình của một vùng đất, tác giả còn nhắn gửi đến thế hệ trẻ những ưu tư của người đi trước, qua bài Thư gửi con trai “... Từng trang giấy mở ra, từng phím chữ ngân lên cùng viết lời hiệu triệu khẳng định chủ quyền: Hoàng Sa - Trường Sa của Tổ quốc Việt Nam” và trong bài Lửa đương chức, Võ Quê như đại diện cho hàng triệu trái tim mọi người để gửi thông điệp đến người đương chức: “... trong giai đoạn này, mọi tầng lớp nhân dân đang cần nơi những người đương chức, đương quyền ngọn lửa của đức độ, trí tuệ, tâm huyết, tài năng, chí công vô tư nhằm vận hành đất nước ngày một tiến bộ, văn minh; làm cho nhân dân thoát khỏi đói nghèo để cuộc sống được phồn vinh, thịnh vượng.” Và anh luôn “Hy vọng và ước mơ sao ánh lửa vì nước vì dân của những người đương chức đương quyền cùng đồng hành ngọn lửa tuổi hai mươi.”
Xuyên suốt trong tập Xôi chuông, hình ảnh Tiểu Kiều, người vợ quá cố của tác giả như đồng hành cùng anh trong những chuyến hành trình. Như hình ảnh lên đường của một thi nhân, hành trang mang vác theo chỉ là nỗi nhớ; mà nhớ người yêu dấu là nỗi nhớ lớn nhất của đời người. Có thể nói rằng nhớ là thuộc tính nhân bản nhất của con người mà tiền nhân đã dặn dò: Uống nước nhớ nguồn. Ăn quả nhớ người trồng cây...
Tập sách không chỉ bó hẹp trong phạm vi quê nhà, tác giả còn gửi đến người đọc những cảm nhận về các xứ miền trên mặt đất quý yêu này. Tôi cảm nhận mỗi bài tản văn của Võ Quê như một vết loang cảm xúc của tác giả với ngôn ngữ nhẹ như thơ, mộc mạc như bước chân người quê và ăm ắp tình quê tình người của một văn nhân ở tuổi cận thất thập, nhưng chữ và hồn của tác giả vẫn truyền một ánh lửa nhân văn cho các thế hệ tiếp nối.
L.H.L
Tàn cuộc rượu đêm cùng Xôi chuông10/2013
* Ảnh: Lãng Hiển Xuân